Chiến công làm ấm lòng tướng Giáp giữa ngày rét mướt

(Dân trí) - Khi chiếc máy bay B52 đầu tiên bị bắn rơi tại chỗ đêm 18/12/1972, bầu không khí căng thẳng chờ đợi lập tức được giải tỏa. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết, lúc đó, trời rét đậm và mưa bụi nhưng lòng lại thấy ấm áp lạ thường.

Đại tá Hồ Khang - Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam - nhấn mạnh, chiến công đầu tiên đó củng cố niềm tin và quyết tâm cho toàn dân, toàn quân ta trong cuộc đọ sức giữa mặt đất và bầu trời cuối tháng 12 năm ấy.

Thưa ông, khi quyết định dùng B52 đánh phá Hà Nội, Hải Phòng, chính quyền Nixon đánh giá như thế nào về khả năng của miền Bắc Việt Nam, nhất là lực lượng phòng không?

Mở cuộc tập kích bằng B52 này, chính quyền Nixon có phần chủ quan trong việc đánh giá khả năng của miền Bắc Việt Nam, đánh giá thấp lực lượng phòng không của ta. Lùi lại một chút thời gian, vào đêm 20/11/1970, chính quyền Nixon liều lĩnh mở cuộc tập kích bằng máy bay trực thăng, được nhiều máy bay F-105 làm nhiệm vụ nghi binh và yểm trợ xuống khu vực ở thị xã Sơn Tây nhằm cướp tù binh Mỹ. Tuy cuộc tập kích không đạt được mục đích đề ra (do trước đó tù binh Mỹ đã được phía Việt Nam di chuyển đến nơi khác) nhưng việc máy bay trực thăng Mỹ có thể đổ bộ xuống ngoại thành Hà Nội mà không bị phát hiện đã làm cho chính quyền Mỹ đánh giá không cao khả năng phát hiện của hệ thống ra-đa phòng không miền Bắc.

Từ tháng 4/1972 đến tháng 10/1972, Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai, trong đó có rất nhiều phi vụ B52 đánh phá Hà Nội, Hải Phòng mà không bị trừng trị. Điều đó càng củng cố sự chủ quan, đánh giá trước đây của phía Mỹ. Một nhà sử học Mỹ, giáo sư Gơ-rin-út trong cuốn sách “The America war in Vietnam” đã bình luận “kết quả những trận đánh B52 trước tháng 12/1972 đã làm mê hoặc các nhà vạch kế hoạch của Mỹ”.

Cho nên, dù đã được các cơ quan tham mưu chiến lược Mỹ cảnh báo về hệ thống lưới lửa phòng không dày đặc bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng, nhưng Nixon vẫn lệnh cho Đô đốc Moorer - Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ - mở cuộc tập kích B52 vào Hà Nội, Hải Phòng với sự tin tưởng vững chắc đòn đánh B52 sẽ buộc đối phương phải nhân nhượng Mỹ.
PGS.TS, Đại đá Hồ Khang hiện là Phó Viện trưởng Viện lịch sử Quân sự Việt Nam.
PGS.TS, Đại tá Hồ Khang hiện là Phó Viện trưởng Viện lịch sử Quân sự Việt Nam.

Dường như phía Mỹ đã không lường hết sức mạnh tiềm ẩn của quân dân ta cũng như những sáng tạo, bước tiến của quân dân ta qua từng ngày đối diện với B52 của Mỹ?

Nhà sử học Mỹ Gabriel Kolko, trong tác phẩm “Giải phẫu một cuộc chiến tranh” đã nhận xét “chiến tranh nhân dân Việt Nam luôn tiềm ẩn sức mạnh to lớn từ sự sáng tạo của bản thân nó. Mỹ đã đánh giá không đầy đủ và đã chọn nhầm đối thủ”. Tôi nghĩ rằng, cuộc đọ sức giữa bầu trời và mặt đất trong 12 ngày đêm cuối 1972 ở Hà Nội cũng là một trong những ví dụ tiêu biểu chứng minh cho nhận xét ấy.

Một trong những vấn đề nan giải đặt ra cho lực lượng phòng không miền Bắc lúc bấy giờ là bằng cách nào để tìm ra phương pháp nhận biết, tiếp cận và bắn hạ mục tiêu B52. Cho đến thời điểm ấy, không nhà quân sự nào trên thế giới, thậm chí ngay cả nhiều tướng lĩnh, cán bộ chỉ huy của ta tin rằng chúng ta có thể tìm ra phương pháp nhận biết, tiếp cận và bắn hạ B52 hiệu quả đến như vậy.

Hơn nữa, việc tìm ra “cách đánh B52” hiệu quả cao trong một thời gian ngắn đúng là đã vượt ra ngoài sự lường định của các nhà quân sự Hoa Kỳ. Trong thời điểm vô cùng khó khăn, sức sáng tạo của quân dân Việt Nam đã được phát huy cao độ, kịp thời, góp phần quyết định đến thắng lợi của trận đánh 12 ngày đêm.

Một chuyên gia Nga đã nói rằng "chúng tôi đã rút ra được những kinh nghiệm về việc sử dụng các loại vũ khí để chống lại các phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ. Chính vì thế, chúng tôi cũng phải nói cảm ơn các bạn Việt Nam”. Ông có bình luận gì về ý kiến này, đây có phải là một phát biểu “ngoại giao” không?

Tôi cho rằng đó không hẳn là phát biểu mang tính chất ngoại giao. Thực tế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân Việt Nam nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ rất to lớn, hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Liên Xô. Đảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô đã giúp đỡ nhiều loại vũ khí cho Việt Nam. Trong chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không 1972”, tên lửa SAM2 do Liên Xô viện trợ là vũ khí chủ yếu để chúng ta bắn rơi B52. Chiến trường Việt Nam cũng chính là nơi thử nghiệm các loại vũ khí cho cả phía Mỹ và Liên Xô.

Nhưng điều cốt lõi nào đã làm nên chiến thắng của ta trong trận chiến quyết định này, thưa ông?

Vũ khí có vai trò quan trọng, nhưng tôi nghĩ điều cốt lõi đưa đến thắng lợi nằm ở việc phát huy nhân tố con người. Quân dân ta với trí thông minh, tài mưu lược, sức sáng tạo cùng tinh thần yêu nước sâu sắc được hun đúc trong truyền thống đấu tranh bất khuất đã đóng vai trò quyết định đến thắng lợi của ta trong trận chiến này. Những cuộc chiến tranh về sau mà nước Mỹ tham chiến, Mỹ vẫn sử dụng các pháo đài bay B52, nhưng đối phương của họ không thể bắn hạ B52 dù được trang bị nhiều loại vũ khí hiện đại hơn của chúng ta năm 1972.

Năm 2001, khi trở lại thăm Việt Nam, Thượng tướng A-na-tô-li I-va-nô-vích Khiu Pen-nen, nguyên là Trưởng đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô tại Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đã phát biểu: “Trao vũ khí tên lửa cho các bạn Việt Nam là trao nó cho những bộ óc sáng tạo và những bàn tay vàng. Thật sự là vinh quang cho bộ đội tên lửa Việt Nam!
 
PGS.TS, Đại đá Hồ Khang hiện là Phó Viện trưởng Viện lịch sử Quân sự Việt Nam.
Pháo phòng không của Quân dân Việt Nam đã lập chiến công ngay trong đêm đầu tiên "đấu" với B52.

Trong những chiến công trong 12 ngày đêm khói lửa này, ông ấn tượng với chiến công nào, với tình huống bắn rơi B52 nào nhất?

Tôi nghĩ đó là chiến công bắn rơi tại chỗ chiếc B52 ngay trong đêm đầu tiên trên bầu trời Hà Nội (18/12/1972).

Quân dân ta đã rất chủ động để đối phó với tình huống Mỹ dùng B52 đánh phá ồ ạt vào Thủ đô Hà Nội. Cả ta và địch đều xác định đây là trận đánh có ý nghĩa quyết định đến kết quả thương lượng trên bàn đàm phán Paris. Tuy nhiên, mức độ địch đánh phá thế nào, khả năng thực tế đánh trả của ta ra sao vẫn là câu hỏi lớn.

Vì thế, khi chiếc máy bay B52 đầu tiên bị bắn rơi tại chỗ đêm 18/12/1972, bầu không khí căng thẳng chờ đợi ngay tại Tổng hành dinh lập tức được giải tỏa. Trong hồi ký của mình, Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp cho biết, lúc đó, Đại tướng bước ra ngoài Sở chỉ huy. Trời rét đậm và mưa bụi nhưng lòng Đại tướng “lại thấy ấm áp lạ thường”... Chiến công đầu tiên đó củng cố niềm tin và quyết tâm cho toàn dân, toàn quân ta trong cuộc đọ sức giữa mặt đất và bầu trời cuối tháng 12 năm ấy.

Những đánh giá nào của các chính khách, tướng lĩnh, học giả, báo giới quốc tế nào về chiến thắng Điện Biên Phủ trên không đọng lại sâu trong ông?

Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không 1972” đã thu hút đông đảo dư luận phương Tây và thế giới ngày ấy. Cho đến nay, nó vẫn là đề tài quan tâm tìm hiểu của nhiều chính khách, tướng lĩnh, học giả, báo giới cả trong và ngoài nước. Mỗi người nhìn nhận và đưa ra những nhận xét, đánh giá không giống nhau.

Tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng, chiến công này là một sự bất ngờ lớn và gây sốc cho Mỹ-chính quyền Sài Gòn. Tổng thống Nixon, trong hồi ký của mình, đã thừa nhận “Mối lo lớn nhất của ông lúc đó không phải là làn sóng phê phán đến từ trong nước cũng như ngoài nước, mà là những tổn thất nặng nề về B52 bị bắn hạ trên bầu trời Hà Nội”.

Trong tài liệu Tổng kết về chiến tranh không quân của Mỹ ở Đông Dương, nhóm học giả ở trường đại học Cooc-nen (Mỹ) đã đưa ra kết luận “Thắng lợi của người Việt Nam là một ví dụ vô song về sự toàn thắng của trí tuệ con người đối với vũ khí, máy móc”.

Còn Ra-un Van-đét Vi-vô (Đại sứ Cu-ba tại Hà Nội), chứng kiến cuộc chiến đấu của quân dân Thủ đô ta ngày ấy, đã nhận xét: Tại Hà Nội anh hùng... người ta đã thấy rõ một dân tộc không đầu hàng và không hề sợ sệt, quyết tâm làm theo Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hà Nội anh hùng đã đập tan vĩnh viễn câu chuyện thần thoại về những B52 của Mỹ.

Xin cảm ơn ông! 
 
Cấn Cường - Phương Thảo (thực hiện)