Vì sao Liên Xô không đưa người lên mặt trăng?
Trong cuộc chạy đua chinh phục chị Hằng, ở giai đoạn đầu Liên Xô luôn luôn đi trước Mỹ. Nhưng đến khi đưa người lên mặt trăng thì Liên Xô lại thua, không đưa được nhà phi hành nào dù là chỉ bay vòng quanh chị Hằng. Bí ẩn này mãi đến gần đây mới được vén màn
Vấn đề là không phải Liên Xô (LX) thua kém Mỹ về kỹ thuật tên lửa. Ngược lại là đằng khác bởi lúc đó LX đã chế tạo được tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM) đầu tiên trên thế giới có tên R-7 hay “Zemyorka” (số bảy nhỏ). R-7 tỏ ra vượt trội so với các tên lửa Mỹ lúc bấy giờ và trở thành tên lửa chủ lực phóng các tàu vũ trụ của LX.
Một thời lẫy lừng
Từ năm 1959, LX đã đi đầu trong cuộc chạy đua lên cung trăng suốt một thập kỷ. Vật dụng do con người chế tạo đầu tiên được đưa lên mặt trăng là tàu thăm dò Luna 2. Con tàu này đã chạm đất mặt trăng ngày 14/9/1959. Những tấm ảnh đầu tiên trên thế giới chụp được mặt tối vĩnh hằng của mặt trăng do tàu thăm dò Luna 3 của LX thực hiện ngày 7/10/1959.
Luna 9 cũng là tàu thăm dò đầu tiên hạ cánh nhẹ nhàng xuống đất mặt trăng ngày 3/2/1966. Nó chứng minh rằng tàu đổ bộ không chìm nghỉm trong lớp bụi rất dày che phủ đất mặt trăng như người ta sợ. Vệ tinh nhân tạo đầu tiên bay quanh mặt trăng cũng do LX thực hiện với tàu Luna 10 (phóng ngày 31/3/1966). Chiếc xe robot đầu tiên chạy trên mặt trăng ngày 17/11/1970 cũng của LX: chiếc Lunokhod 1. Thế nhưng trước đó, ngày 24/12/1968, người đầu tiên đặt chân lên đất mặt trăng là một người Mỹ: Neil Armstrong, chỉ huy tàu Apollo 11. Trước sau có tổng cộng 12 phi hành gia Mỹ lên tới cung trăng. Trong khi đó, không một nhà du hành LX nào được đưa lên đó. Phải chăng đây là vấn đề chiến lược? Bởi thực lực của LX lúc đó không hề thua kém Mỹ.
Huyền thoại Korolev
20 năm sau khi người Mỹ đặt chân lên mặt trăng, LX mới chính thức thừa nhận mình có một chương trình đưa người lên mặt trăng (gọi tắt theo tiếng Anh là MMP) từ năm 1960 nhưng được giữ bí mật tuyệt đối. Thông tin này được đăng lần đầu tiên trên nhật báo Izvestia ngày 18/8/1998.
Người đầu tiên đề xuất chương trình MMP là tổng công trình sư huyền thoại Sergei Korolev. Chính ông này đã đưa ra ý tưởng thiết kế một tên lửa đẩy cực mạnh có khả năng đưa người lên mặt trăng, thậm chí lên sao Hỏa vào cuối thập niên 1950. Việc thiết kế một loạt tên lửa đó – có tên N-1 và sau đó N-2 – bắt đầu trước khi tổng thống Mỹ John F. Kennedy công bố chương trình Apollo.
Năm 1962, chính phủ LX chấp thuận việc sản xuất tên lửa N-1. Ở giai đoạn đầu, tên lửa N-1 được thiết kế để đưa những con tàu vũ trụ nặng 40-50 tấn lên quỹ đạo trái đất. Ở giai đoạn kế tiếp, N-1 sẽ được cải tiến thành N-2 nâng sức đẩy lên 70-80 tấn đưa tàu vũ trụ lên quỹ đạo mặt trăng rồi đưa người lên mặt trăng vào năm 1967. Tuy nhiên, ngay trong giai đoạn đầu, việc sản xuất tên lửa N-1 đã gặp nhiều trở ngại.
Long hổ tranh hùng
Đầu tiên là Lực lượng tên lửa chiến lược (SSF), đơn vị nắm giữ “két sắt” của chương trình MMP. Cho rằng MMP không có lợi ích quân sự và chỉ nhằm mục tiêu chính trị, SSF tỏ ra lạnh nhạt và vận động cấp trên tập trung ngân sách vào việc chế tạo các tên lửa ICBM. Chương trình MMP vì vậy lâm vào tình trạng luôn thiếu tiền.
Thứ hai là Valentin Glushko, kiến trúc sư trưởng bộ phận sản xuất động cơ tên lửa, bất đồng với Korolev về việc dùng nhiên liệu gì cho tên lửa N-1. Korolev muốn dùng nhiên liệu lỏng cực lạnh như khí ôxy lỏng nhưng Glusko lại muốn dùng nhiên liệu rắn. Một ủy ban đặc biệt được thành lập năm 1962 để giải quyết cuộc xung đột này. Kết quả Korolev thắng cuộc nhưng phải nhờ nhà thiết kế động cơ máy bay Nikolai Kuznetsov chế tạo động cơ dùng nhiên liệu lỏng vì Glushko từ chối cộng tác.
Nhưng Kuznetsov không có kinh nghiệm chế tạo động cơ tên lửa loại lớn. Ông này chỉ giỏi chế tạo những động cơ nhỏ vì vậy tên lửa N-1 có đến 30 động cơ ở tầng 1, 8 động cơ ở tầng 2 và 4 động cơ ở tầng 3. Khai hỏa đồng loạt tất cả những động cơ này là một việc hết sức khó khăn. Cộng với áp lực từ chủ tịch Nikita Khrushchev về thời gian (chạy đua với chương trình Apollo của Mỹ) và kinh phí hạn hẹp, 4 cuộc phóng tên lửa N-1 từ tháng 2/1969 đến tháng 11/1972 đều thất bại thảm hại.
Một nguyên nhân khác cũng quan trọng là ở LX lúc bấy giờ không chỉ có Korolev. Vladimir Chelomey cũng là một tổng công trình sư tham gia chương trình MMP. Ông này lại là một kình địch của Korolev nhưng được lòng chủ tịch Khrushchev vì con trai ông chủ tịch, kỹ sư hàng không Sergei Khrushchev, làm việc cho Chelomey. Sergei làm ở phòng thiết kế tên lửa UR-500 (sau này gọi là Proton). Anh ta òn ỉ với cha nên dùng tên lửa UR-500 hơn dùng N-1. Nhưng tên lửa UR-500 cũng không hơn gì N-1. Phóng thử 22 lần từ tháng 3/1967 đến tháng 10/1970, chỉ có một lần duy nhất thành công (tháng 8-1969).
Thiếu anh tài và tiền
Cũng cần nói thêm trong câu chuyện này có hai sự kiện có ảnh hưởng rất lớn đến chương trình MMP. Đó là sự kiện Nikita Khrushchev bị hạ bệ năm 1964. Theo một số nhà phân tích, sự kiện này coi vậy mang tính tích cực đối với chương trình MMP. Ông Khrushchev lúc đương thời không kiên trì trong chỉ đạo thực hiện, có lúc tuyên bố “không có kế hoạch đưa người lên mặt trăng” (tháng 10/1963) nhưng sau khi tổng thống John F. Kennedy công bố chương trình Apollo thì đổi ý, hối thúc chạy đua.
Chủ tịch Leonid Brejnev lên thay ông Khrushchev hỗ trợ Korolev tối đa nhưng chẳng may tháng giêng năm 1966, ông Korolev đột ngột qua đời sau một cuộc giải phẫu. Vasily Mishin lên thay ông là một người không có tầm nhìn xa lại không có ảnh hưởng lớn đối với chính phủ. Hơn nữa, sau một loạt thất bại của tên lửa N-1, Mishin bị thất sủng nhường chức cho Valentin Glushko.
Cuối cùng, ngân sách ít ỏi mà Chính phủ LX dành cho chương trình MMP cũng góp phần làm cho chương trình này dở dang. Pravda-Ru cho biết, Mỹ đã chi 25 tỉ USD cho chương trình Apollo trong khi chương trình MMP chỉ được cấp 4,5 tỉ rúp!
Theo Văn Anh
Người lao động