1. Dòng sự kiện:
  2. Chiến sự Nga - Ukraine
  3. Bầu cử tổng thống Mỹ 2024
  4. Chiến sự Israel - Hamas

Chuyên gia Mỹ: Cần chấm dứt hành vi bắt nạt trên Biển Đông

(Dân trí) - Hai chuyên gia Gregory B. Poling và Murray Hiebert nhận định rằng Trung Quốc cần phải trả giá vì đã cho phép lực lượng hải cảnh và ủy nhiệm của nước này cản trở tự do hàng hải trên Biển Đông.

Chuyên gia Mỹ: Cần chấm dứt hành vi bắt nạt trên Biển Đông - 1

Tàu hải cảnh Trung Quốc tìm cách chặn một tàu Philippines tại Biển Đông hồi tháng 3. (Ảnh: AP)

Tuần trước, Bộ Ngoại giao Mỹ đã ra thông cáo lên án các hành vi quấy rối của Trung Quốc đối với các hoạt động khai thác dầu khí của Malaysia và Việt Nam trên Biển Đông. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Morgan Ortagus đã chỉ trích hành vi “can thiệp liên tục” của Trung Quốc đối với “hoạt động khai thác dầu khí từ lâu của Việt Nam”, đồng thời cho rằng động thái của Bắc Kinh đã “làm dấy lên nghi ngờ về cam kết của Trung Quốc đối với việc giải quyết hòa bình các tranh chấp hàng hải”.

Trong bài viết với tiêu đề “Chấm dứt hành vi bắt nạt trên Biển Đông” đăng trên Thời báo Phố Wall ngày 28/8, hai chuyên gia Gregory B. Poling và Murray Hiebert cho biết mặc dù hoạt động quấy rối của các tàu Trung Quốc ở ngoài khơi vùng biển Việt Nam đã thu hút rất nhiều sự chú ý, song hành vi bắt nạt của Bắc Kinh thực chất bắt đầu từ tháng 5, ở phía bên kia của Biển Đông.

Vào ngày 21/5, hai tàu thuộc một công ty con của công ty dầu khí Anh - Hà Lan Royal Dutch Shell vừa hoàn tất hành trình định kỳ từ bang Sarawak của Malaysia tới khu vực khoan dầu ở ngoài khơi bờ biển Malaysia tại Biển Đông. Ban đầu, Haijing 35111, một tàu hải cảnh lớn của Trung Quốc, xuất hiện từ xa. Sau đó tàu này di chuyển với tốc độ cao và chạy vòng quanh, tiếp cận hai tàu thương mại ở khoảng cách chỉ 80 m.

Tất cả những hành động của tàu Trung Quốc đều lọt vào tầm theo dõi của Sáng kiến Minh bạch Hàng hải thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế, thông qua việc sử dụng tín hiệu nhận diện được truyền qua lại giữa các tàu.

Vụ việc xảy ra với hai tàu thương mại trên chỉ là một phần trong nỗ lực kéo dài suốt 2 tuần của tàu Haijing 35111 nhằm quấy rối và cản trở hoạt động khai thác dầu khí của Shell. Tới cuối tháng 5, tàu Trung Quốc tạm dừng nỗ lực quấy rối và quay trở lại cảng ở tỉnh Hải Nam. Tuy nhiên, tàu này cũng không ở lại lâu.

Tới ngày 16/6, tàu Haijing 35111 ngang nhiên đi vào vùng biển của Việt Nam, nơi đang diễn ra các hoạt động dầu khí. Tàu hải cảnh và các tàu của Trung Quốc bắt đầu thực hiện các hành vi quấy rối trong vùng biển của Việt Nam, lặp lại những hành vi gây nguy hiểm như cách các tàu này từng làm ở vùng biển ngoài khơi Malaysia.

Theo các nhà phân tích, mục đích của Trung Quốc nhằm gây sức ép buộc Việt Nam phải dừng các hoạt động khai thác dầu khí, trong khi khí tự nhiên khai thác từ khu vực này đáp ứng 10% nhu cầu năng lượng của Việt Nam.

Tàu Haijing 35111 không thể can thiệp để chấm dứt các hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam và Malaysia. Tuy nhiên, mọi việc không dừng lại ở đó.

Hải Dương Địa chất 8, một tàu của nhà nước Trung Quốc, ngang nhiên tiến vào vùng biển của Việt Nam từ ngày 3/7 và bắt đầu tiến hành hoạt động khảo sát dầu khí trái phép tại khu vực này. Bài viết trên Thời báo Phố Wall cho biết cuộc khảo sát của tàu Trung Quốc bao trùm khu vực đáy biển, nơi Việt Nam có những quyền không thể tranh cãi theo luật pháp quốc tế.

Các tín hiệu nhận dạng cho thấy nhiều tàu hải cảnh của Trung Quốc và các thành viên của lực lượng dân quân biển, lực lượng bán vũ trang hoạt động trên các tàu cá Trung Quốc, tham gia hộ tống tàu Hải Dương Địa chất 8.

Trong một tuần đầu tháng 8, Shi Yan 2, một tàu khảo sát khác của nhà nước Trung Quốc, đã tiến hành khảo sát tại vùng biển của Malaysia, bao gồm khu vực hoạt động của các tàu thuộc nhà thầu Shell và các công ty khác. Bắt đầu từ ngày 14/8, tàu khảo sát thứ 3 của Trung Quốc, Hải Dương 4, đã khảo sát khu vực thềm lục địa nơi cả Việt Nam và Malaysia đều tuyên bố chủ quyền.

“Trung Quốc đang tham gia vào một chiến dịch bắt nạt, hăm dọa và sử dụng bạo lực bán quân sự dài hơi nhằm chống lại Việt Nam, Philippines và Malaysia. Việc (Trung Quốc) hung hăng theo đuổi các yêu sách chủ quyền, vốn đi ngược lại với luật pháp quốc tế và ảnh hưởng tới quyền của các quốc gia Đông Nam Á, là một thách thức nghiêm trọng đối với trật tự hàng hải quốc tế và ổn định khu vực”, bài viết trên Thời báo Phố Wall nhấn mạnh.

Biện pháp đối phó với Trung Quốc

“Không thể có giải pháp quân sự cho cách hành xử cưỡng ép của Trung Quốc. Nếu Washington muốn ngăn chặn xung đột và chứng tỏ rằng họ thực sự nghiêm túc trong việc thúc đẩy tự do hàng hải, họ cần một chiến lược ngoại giao và kinh tế mạnh mẽ, phối hợp cùng các đối tác quốc tế. Mục tiêu là tăng cái giá mà Bắc Kinh phải trả cho những hành vi của họ, đồng thời thuyết phục các nhà lãnh đạo Trung Quốc rằng họ sẽ mất mát nhiều hơn trên trường quốc tế, so với những gì nội bộ họ nhận được từ chiến dịch cưỡng ép”, hai nhà phân tích Gregory B. Poling và Murray Hiebert nhận định.

Một chiến lược như vậy phải bắt đầu từ việc Bộ Ngoại giao Mỹ vận động các nước khác, bao gồm các nước châu Âu, Nhật Bản, Ấn Độ và Australia, cùng kêu gọi Trung Quốc tuân thủ các nghĩa vụ pháp lý. Nếu nhóm nước do Mỹ tập hợp để kêu gọi Trung Quốc thay đổi hành vi càng đông, cái giá Trung Quốc phải trả về mặt danh tiếng nếu họ tiếp tục lối hành xử như hiện tại sẽ càng cao.

Ngoài ra, Mỹ và các nước đối tác cũng nên kết hợp với các tác động về kinh tế để gây sức ép với Trung Quốc. Nếu Trung Quốc muốn trông cậy vào lực lượng dân sự và bán quân sự để chèn ép các nước láng giềng, những lực lượng này phải bị “vạch mặt”. Mỹ và các nước đối tác nên công khai danh tính của các lực lượng dân sự cũng như những đối tượng tham gia vào các hoạt động dân quân trên biển của Trung Quốc nhằm cưỡng ép các nước láng giềng.

Mỹ cũng nên cấm các đối tượng trên hoạt động kinh doanh tại Mỹ hay tiếp cận thị trường tài chính toàn cầu thông qua một công cụ như Đạo luật Trừng phạt trên Biển Đông. Trước đây, Mỹ từng sử dụng công cụ này để phản ứng với việc Nga bị cho là sử dụng lực lượng bán quân sự tại đông Ukraine vào năm 2014.

Ông Murray Hiebert là nhà nghiên cứu cấp cao của Chương trình châu Á thuộc Trung tâm nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) ở Washington, Mỹ.

Ông Gregory B. Poling là giám đốc Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á tại CSIS. 

Thành Đạt

Theo WSJ