Tâm điểm
Đỗ Cao Bảo

50 năm, từ người lính trở thành doanh nhân

Vào năm học lớp 9 (hệ 10 năm), có những buổi sáng đến lớp thấy một vài chỗ ngồi bỏ trống, chúng tôi được rỉ tai rằng bạn D, ban L, bạn … đã lên đường nhập ngũ.

Năm học cuối cấp cũng vậy, thỉnh thoảng lại có thêm một vài chỗ ngồi bỏ trống. Chẳng cần ai mách chúng tôi đều biết, các bạn ấy lại lên đường nhập ngũ.

Rồi đến lượt tôi và các bạn thân nhất cũng vậy, đợt này thì gần như tổng động viên, không chỉ nam mà cả các bạn nữ cũng khoác lên mình chiếc áo lính màu xanh.

Những ngày cuối tháng 3, đầu tháng 4 năm 1975, chúng tôi lên đường hành quân vào Nam. Tôi, người lính học trò, mặt búng ra sữa, chỉ nặng có 48kg, vai đeo ba lô chăn màn, quần áo tư trang, khẩu súng AK, bao gạo 7kg, bó củi 5kg, cộng thêm chai dầu hỏa (tổng cộng 30kg), mỗi ngày hành quân bộ 25-30km, mưa cũng đi, nắng cũng đi, ngày đi, đêm nghỉ, trưa ăn cơm nắm, tối ngủ nhờ nhà dân.

Thời điểm ấy, sư đoàn tôi là sư đoàn bộ binh chính quy duy nhất còn ở lại miền Bắc, toàn bộ xe ô tô của sư đoàn đã được chi viện cho các sư đoàn bạn trong cùng quân đoàn, để Quân đoàn 1 tổ chức thành một cánh quân trong 5 cánh quân tiến đánh Sài Gòn. Thần tốc, thần tốc, chỉ mất đúng 12 ngày hành quân bằng xe cơ giới, vượt qua quãng đường 1.700km, đúng 11h30 trưa ngày 30/4/1975, cánh quân thứ 5 là Quân đoàn 1 đã đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu Quân đội Việt Nam Cộng Hòa.

50 năm, từ người lính trở thành doanh nhân - 1

Sinh viên Đại học Kinh tế Kế hoạch (nay là Đại học Kinh tế quốc dân) trước giờ lên đường nhập ngũ tháng 9/1971 (Ảnh tư liệu TTXVN).

Trên đường hành quân, khi đến Thanh Hóa thì chúng tôi tạm dừng chân, tập luyện, bắn đạn thật, ném lựu đạn thật và chờ lệnh của cấp trên. Đang hăng say tập luyện thì trưa 30/4 tin chiến thắng báo về, chiến tranh kết thúc, hòa bình đã lập lại trên cả nước. Niềm vui vỡ òa, tràn ngập cảm xúc.

Vì là sư đoàn bộ binh chủ lực cuối cùng còn ở miền Bắc, nên sau 30/4, chúng tôi là đơn vị đầu tiên ngồi tàu hỏa ngược ra Hà Nội, tất nhiên hai bên thành tàu có treo cờ đỏ sao vàng. Đi đến ga nào, người dân cũng đứng ở ga tàu chào mừng đoàn quân chiến thắng trở về. Niềm vui lớn quá, cả nước tràn ngập niềm vui, nên chúng tôi cũng chẳng thanh minh rằng chúng tôi không trực tiếp chiến đấu, mới đi được có nửa đường thôi.

Câu lạc bộ cựu chiến binh lớp tôi, hiện tại có 17 bạn. Giờ đây ngồi với nhau chúng tôi không thể đếm được chính xác cả lớp có bao nhiêu bạn đã từng khoác áo lính, chỉ biết rằng mỗi lần họp lớp thì có đến 2/3 đã gia nhập quân đội vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh.

Vâng, thế hệ chúng tôi là thế hệ 2/3 lớp, cả nam lẫn nữ đã lên đường nhập ngũ vào những năm tháng cuối cùng của chiến tranh, góp phần nhỏ bé vào ngày hòa bình, thống nhất đất nước.

Sau ngày thống nhất đất nước, ý nghĩ đầu tiên lóe lên trong đầu tôi là "hòa bình rồi, trở về đi học thôi". Tôi chia sẻ ý định này với những người bạn thân, bạn học, đồng đội cùng nhập ngũ. Thế nhưng định hướng, cơ hội, cũng như những ngã rẽ khác nhau, thế hệ 50 năm chúng tôi chia làm hai nhóm: một nửa đi học các trường sĩ quan sau đó ở lại phục vụ lâu dài trong quân đội, còn một nửa trở về đi học đại học.

Định hướng là trở về đi học đại học, nhưng phải đến 3 năm nữa, đầu năm 1978 sau khi hết nghĩa vụ quân sự, tôi mới được làm các thủ tục chuyển ngành về học đại học. Một sự kiện khác đã diễn ra làm cho cuộc đời của chúng tôi lại thêm một bước ngoặt, đúng lúc ấy nguy cơ chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra. Để chuẩn bị nguồn cán bộ lâu dài cho quân đội, Bộ Quốc phòng rút hồ sơ của tôi từ Bộ Đại học về, thay vì được đi học dự bị ngoại ngữ ở Đại học Ngoại Ngữ Hà Nội, chúng tôi quay trở về học dự bị ngoại ngữ ở trường Văn hóa quân đội để sang Nga học đại học (sau đó trở về phục vụ trong quân đội).

Ngã rẽ này đã cho chúng tôi có một năm học chung mái trường, chung thầy cô với những anh hùng lực lượng vũ trang nổi tiếng trong chiến tranh chống Mỹ, đặc biệt là trong ngày 30/4 lịch sử (năm ấy trường Văn hóa quân đội có 4 lớp hạ sĩ quan học dự bị tiếng Nga để sang Liên Xô học Đại học, và một lớp sĩ quan học dự bị tiếng Nga để sang Liên Xô học các trường sĩ quan cao cấp của Liên Xô).

Những anh hùng lực lượng vũ trang nổi tiếng học chung trường năm ấy mà tôi nhớ nhất là các anh Đoàn Sinh Hưởng (sau này trở thành Trung tướng, Tư lệnh Binh chủng Tăng - Thiết Giáp, Tư lệnh Quân khu 4); Phạm Xuân Thệ, người áp giải Tướng Dương Văn Minh từ Dinh Độc Lập đến Đài phát thanh Sài Gòn (sau này trở thành Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 2, Tư lệnh Quân khu 1); Bùi Quang Thận, người đầu tiên cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập vào 11h30 ngày 30/4/1975; Nguyễn Văn Nông, anh hùng Đặc công nước với nhiều chiến công lẫy lừng.

Chiến tranh biên giới phía Bắc đã đưa tôi quay trở lại đeo quân hàm thượng sĩ trong suốt 5 năm học đại học, và sau khi tốt nghiệp Đại học (năm 1984), tôi trở thành sĩ quan - trợ lý ở Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu. Đến ngày đất nước đổi mới, theo lời mời của anh Trương Gia Bình, tôi chuyển ngành và tham gia nhóm 13 người sáng lập Tập đoàn FPT vào năm 1988.

Giờ đây, mỗi dịp 30/4 là tôi lại nhớ lại những ngày hành quân bộ dưới trời mưa, vai đeo 30kg tư trang và khẩu súng AK, vui mừng vì chiến tranh sớm kết thúc, đất nước thống nhất, hòa bình được lập lại, rồi đất nước đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường để mình có cơ hội trở thành doanh nhân, tham gia sáng lập FPT, góp một phần nhỏ bé vào sự phát triển và lớn mạnh của một doanh nghiệp công nghệ lớn nhất Việt Nam, doanh nghiệp phần mềm lớn nhất Đông Nam Á, được chứng kiến sự thay đổi kỳ diệu của đất nước, trong đó có cuộc sống của người thân và gia đình mình.

Tác giả: Ông Đỗ Cao Bảo là cử nhân Toán điều khiển, Học viện kỹ thuật quân sự; từng làm việc tại Cục Tác chiến, Bộ Tổng tham mưu và Viện Khoa học Việt Nam. Ông Bảo là một trong những thành viên sáng lập Tập đoàn FPT, hiện là Ủy viên HĐQT Công ty Cổ phần FPT.

Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!