Giáo dục Việt Nam và xu hướng E-learning

(Dân trí) - Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và truyền thông, đào tạo trực tuyến (E-learning) ra đời như một cuộc cách mạng về dạy và học, trở thành một xu thế tất yếu của thời đại và đang “bùng nổ” ở nhiều nước đã và đang phát triển.

Kháũ niệm về E-learning

E-learning là một phương thức đào tạo hiện đại dựa trên công nghệ thông tin.. Với sự bùng nổ phát triển của công nghệ hiện nay, E-learning ngày càng được ưa chuộng bởi tính linh hoạt và tiện dụng vǪ̀ thời gian lẫn địa điểm. Nó giúp giải quyết nhiều vấn đề khó khăn khi người học có thể có thể học mọi lúc mọi nơi, ở văn phòng, ở nhà hoặc bất kỳ địa điểm nào thuận tiện và có thể học nhiều lần. Đây là điều mà các phương pháp giáo dục truyền thốngč không có được.

Hiện nay, E-learning phát triển không đồng đều tại các khu vực trên thế giới. Phát triển mạnh nhất ở khu vực Bắc Mỹ và châu Âu, trong khi đó châu Á và Đông Nam Á lại là hai khu vực mặc dù việc ứng dụng công nghệ này ţòn nhiều bất cập tuy nhiên triển vọng rất tươi sáng.

Mô hình E-learning tiên tiến ở những nước có nền giáo dục phát triển

Nhiều nước phát triển trên thế giới đã triển khai mạnh mẽ E-learning trong hệ th᷑ng giáo dục chung trên cả nước. Những năm gần đây, E-learning đã và đang triển khai cho học sinh phổ thông, điển hình là các nước Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản…

Ở Mỹ, đã có hàng triệu học sinh phổ thông đăng ký học Online. Đưa lớp học lêŮ mạng Internet là một trào lưu đang bùng nổ tại những nước này. Không chỉ là một phong trào tự phát, tại nhiều bang ở Hoa Kỳ các nhà quản lý giáo dục đã ban hành quy định trước khi được công nhận tốt nghiệp, mỗi học sinh phải đăng ký học một số môn nhấŴ định tại các lớp học trực tuyến. Theo lý giải của các nhà quản lý, đây là bước chuẩn bị nhằm trang bị cho học sinh những kỹ năng cần thiếtcho việc học tại các trường đại học sau này và thích ứng với môi trường làm việc của thế kỷ 21.

Ċ

Đối với Hàn Quốc, Chính phủ xem đây như một công cụ để giảm tải chi phí dạy kèm tại các trung tâm luyện thi, qua đó góp phần bình đẳng trong giáo dục. Cùng với đó, kênh truyền hình học đường được mở ra cùng với website cung cấp các bài giảng ôn thi đại học miễn phí, thu hút một số lượng rất lớn học sinh tham gia. Một số giáo viên, giảng viên giỏi ở Hàn Quốc cho rằng e-learning mang lại cơ hội và sự công bằng hơn cho giáo dục bởi những học sinh nghèo có thể tham gia vào khóa luyện thi của những thầy giỏi với mức học phí rất ít so với lớp luyện thi thông thường.

Ở nhiều nước phát triển, E-learning được triển khai với quy mô sâu rộng với rất nhiều tính năng đi kèm với khóa học. Đầu tiên phải nói đến tính linh hoạt trong việc học và thanh toán chi phí học tập bởi vì bản chất của Internet, nền tảng của công nghệ cho việc học trực tuyến là linh hoạt. Từ khi đăng ký học đến lúc hoàn tâāt người học có thể học theo thời gian biểu mình định ra, Không bị gò bó bởi thời gian và không gian lớp học dù bạn vẫn đang ở trong lớp học “ảo”. Chi phí học thấp tính theo tháng với mỗi môn được thanh toán một cách nhanh chóng bằnŧ các phương thức thanh toán điện tử khác nhau. Điều này hoàn toàn phù hợp với những quốc gia có nền công nghệ thông tin phát triển như Mỹ, Nhật, Hàn Quốc…


Giáo dục trực tuyến với những tính năng tiện lợi

<įp>

Tại Mỹ, một tính năng rất hay thường gọi là đào tạo “một - một” (1-on-1) là một trong những tiện ích quan trọng được triển khai trên công nghệ mạng. Với tính năng này, mỗi học sinh lại được quản lý và tương tác với một giáo viên chủ nhiệm nhằmĠtheo dõi và bám sát một cách tốt nhất tới quá trình học của từng học viên. Học sinh được quản lý và đánh giá chặt chẽ về mức độ chuyên cần và kết quả học tập.

Mức độ đánh giá học sinh dựa trên hệ thống Q&A giám sát và quản lý cŨất lượng (Quality and Assurance), học sinh sẽ phải trải qua kỳ thi chất lượng mỗi tháng nhằm đánh giá quá trình học và tiếp thu của học viên. Với hệ thống này, học viên sẽ phải học lại chương trình cho tới khi họ vượt qua được kì thi đánh giá chất lượnŧ này.

Khả năng tương tác với giáo viên của mô hình E-learning cũng được đẩy mạnh, giáo viên chủ nhiệm liên tục kết nối với phụ huynh học sinh trong suốt khóa học. Mọi thông tin về kết quả học tập của học viên được thông báo hàng tuᶧn tới phụ huynh giúp bậc cha mẹ có thể theo dõi sát sao nhất về quá trình học của con em mình. Theo khảo sát, có hơn 75% các bậc phụ huynh người Mỹ cho biết họ có được sự an tâm và tin tưởng khi cho con học trực tuyến bởi họ luôn được cập nhật thông tiŮ đầy đủ về tình hình học tập của con em mình.

Đội ngũ giáo viên chủ nhiệm E-learning (Cyber Teacher) tại các nước như Mỹ, Singapore hay Nhật luôn đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát và đánh giá học viên. Họ là những người nᶯm rõ nhất quá trình học tập của học viên và có thể đưa ra những biện pháp cần thiết để khắc phục và tăng cường chất lượng học tập cho người học.

Nhân sự cho đội ngũ này được tuyển chọn một cách kỹ càng nhất qua nhiều vòng cả về chŵyên môn lẫn khả năng nắm bắt tâm lý của người học do ngoài nhiệm vụ quản lý giám sát, giáo viên chủ nhiệm cũng phải luôn sẵn sàng tư vấn cho học viên về những vấn đề ngoài chuyên môn như hướng nghiệp,phương pháp học tập và những điều mà học sinh muốn cŨia sẻ về cuộc sống.

Nhằm đáp ứng những nhu cầu ngày một cao của người học về nội dung, Chính phủ Singapore khuyến khích những đơn vị triển khai E-learning kết nối với nhau, thành lập kho cơ sở dữ liệu bài giảng chung. Người dùng sauĠkhi đăng ký một tài khoản cố định trên trang web thì có thể tải miễn phí không giới hạn những bài giảng các môn học của nhiều giảng viên uy tín cùng với ngân hàng đề thi vô cùng phong phú. Sau mỗi bài học, học sinh được cung cấp bài tập, tài liệu học tập và hướng dẫn giải giúp cho những học sinh tiếp thu chậm có thể ôn tập dễ dàng hơn.

Trong môi trường E-learning, việc sử dụng phần mềm tin học cho phép mô hình hóa bài giảng, thể hiện trực quan giúp người học tiếp thu dễ dàng hơn kiến thức bài học và tăng sự hào hứng trong học tập. Bên cạnh đó, học viên được tăng cường tính chủ động, người học có thể tự điều chỉnh khóa học cho phù hợp với bản thân như cŨọn học với giáo viên khác nếu thấy không phù hợp.

Phương thức giáo dục
của thế kỷ 21
Phương thức giáo dục của thế kỷ 21

Với sự phát triển nhanh và mạnh của công nghệ thông tin và truyền thông, mạng inteŲnet với tốc độ cao được phổ cập về các vùng quê, vùng xa nhằm nâng cao chất lượng sống của người dân. E-learning trở thành một phương thức đóng vai trò giải quyết vấn đề thiếu hụt giảng viên cho các vùng sâu, vùng xa.

Thay vì cần đᶿn giáo viên giảng dạy trực tiếp, chỉ học sinh đã có thể cập nhật được nguồn kiến thức vô cùng phong phú và đầy đủ. Mô hình này rất có ích cho những nước đang phát triển khi mà trẻ em vùng núi phải vượt hàng chục cho tới hàng trăm km để tới trường. Tuy Ůhiên đi kèm với nó phải có sự đầu tư về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin,truyền thông và đó đang là khó khăn của hầu hết những nước đang phát triển.

Xã hội hóa E-learning cho Giáo dục Việt Nam

Trên thựţ tế, việc học trực tuyến đã không còn mới mẻ ở các nước trên thế giới. Song ở Việt Nam, nó mới chỉ bắt đầu phát triển một số năm gần đây, đồng thời với việc kết nối internet băng thông rộng được triển khai mạnh mẽ tới tất cả các trường học. Sự hữu ích,Ġtiện lợi của E-learning thì đã rõ nhưng để đạt được thành công, các cấp quản lý cần có những quyết sách hợp lý.

Chủ trương của Bộ GD&ĐT trong giai đoạn tới là tích cực triển khai các hoạt động xây dựng một xã hội học tập, mà ở đdz mọi công dân (từ học sinh phổ thông, sinh viên, các tầng lớp người lao động, ..) đều có cơ hội được học tập, hướng tới việc: học bất kỳ thứ gì (any things), bất kỳ lúc nào (any time), bất kỳ nơi đâu (any where) và học tập suốt đời (life long learningĩ. Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên, E-learning nên có một vai trò chủ đạo trong việc tạo ra một môi trường học tập ảo.

Việt Nam đã gia nhập Mạng E-learning châu Á (Asia E-learning Network - AEN, www.asia-elearning.net) với sựĠtham gia của Bộ Giáo dục & Đào tạo, Bộ Khoa học - Công nghệ, trường Đại học Bách Khoa, Bộ Bưu chính - Viễn Thông... Điều này cho thấy tình hình nghiên cứu và ứng dụng loại hình đào tạo này đang được quan tâm ở Việt Nam. Tuy nhiên, so với các nước tŲên thế giới, E-learning ở ViệtNam mới chỉ ở giai đoạn đầu và còn rất nhiều việc phải làm để có thể tiến kịp các nước.

Nguyễn Hoàng