Ung thư vú điều trị khỏi đến 95% nếu phát hiện sớm
(Dân trí) - GS.TS Trần Văn Thuấn cho biết, với ung thư vú nếu phát hiện ở giai đoạn sớm tỉ lệ chữa khỏi đến 95%. Tuy nhiên tại Việt Nam, vẫn có đến 50% bệnh nhân ung thư vú đến viện ở giai đoạn muộn.
Tại Việt Nam, ung thư vú là loại ung thư phổ biến hàng đầu ở nữ giới với tỷ lệ mắc mới chuẩn hóa theo tuổi (ASR) vào năm 2013 là 24,4/100.000 dân (ước tính của GLOBOCAN năm 2018 là 26,4/100.000 dân).
Tại Hà Nội, tỷ lệ này khá cao trong giai đoạn 2005-2008 là 40,3/100.000 dân và có khuynh hướng tăng lên trong những năm gần đây.
Theo thống kê, hiện có khoảng 42.188 người đang sống cùng căn bệnh ung thư vú. Trước đây ung thư vú là nỗi ám ảnh của nhiều người, nhưng ngày nay ung thư vú có thể sàng lọc, phát hiện sớm và tiên lượng điều trị tốt nếu được chẩn đoán ở giai đoạn sớm.
"Tỷ lệ chữa khỏi ung thư vú chung của Việt Nam là 75%, ngang ngửa với Singapore", GS.TS Trần Văn Thuấn, Thứ trưởng Bộ Y tế cho biết.
Càng phát hiện sớm, tỉ lệ chữa khỏi bệnh càng cao. Theo đó, ung thư vú được chia các giai đoạn như sau:
Giai đoạn 0 - giai đoạn đầu
Đây là giai đoạn đầu tiên của bệnh. Ở giai đoạn này, các tế bào ung thư vú mới chỉ xuất hiện trong các ống dẫn sữa. Đây được gọi là bệnh ung thư không xâm lấn hay còn gọi là bệnh ung thư biểu mô tuyến vú tại chỗ.
Trong trường hợp này, bệnh nhân sẽ được chỉ định điều trị bằng cách cắt bỏ khối u và xạ trị để ngăn sự di căn của tế bào ung thư.
Giai đoạn một
Trong giai đoạn một của bệnh, người ta chia làm hai giai đoạn nhỏ là 1A và 1B. Ở giai đoạn 1A, khối u có đường kính nhỏ, chỉ khoảng 2cm và chưa gây ảnh hưởng gì đến các hạch bạch huyết. Sang giai đoạn 1B, các khối u không chỉ xuất hiện ở vú mà còn có thể tìm thấy chúng ở các hạch bạch huyết vùng nách.
Tuy nhiên, đây vẫn là giai đoạn sớm của ung thư vú, bệnh nhân vẫn có cơ hội được điều trị khỏi bằng cách phẫu thuật và các liệu pháp khác.
Giai đoạn 2
Khi bệnh phát triển đến giai đoạn 2, các khối u sẽ có kích thước lớn hơn khoảng từ 2 - 5cm có thể có hoặc không ảnh hưởng đến các hạch bạch huyết và hạch nách.
Ở giai đoạn 2A, các khối u nguyên phát chưa xuất hiện và cũng chưa ảnh hưởng đến 4 hạch bạch huyết. Kích thước khối u dưới 4cm chưa lan đến hạch bạch huyết và hạch nách.
Ở giai đoạn 2B, bác sĩ có thể thấy được những cụm tế bào ung thư trong 1 - 3 hạch bạch huyết ở nách hay gần xương ức. Khối u ở giai đoạn này cũng có thể lớn hơn 5cm nhưng chưa xâm lấn hạch bạch huyết tùy trường hợp.
Các bệnh nhân ở giai đoạn này sẽ được áp dụng các biện pháp như phẫu thuật, kích thích tố, xạ trị hay hóa trị để điều trị bệnh.
Giai đoạn 3
Ở giai đoạn này, các tế bào ung thư đã lan rộng tới 4 - 9 hạch bạch huyết vùng nách hay xuất hiện các hạch bạch huyết vùng vú.
Khi xuất hiện các khối u nguyên phát lớn như ở giai đoạn 3, bệnh nhân sẽ được hóa trị để làm nhỏ khối u trước khi phẫu thuật cắt bỏ.
Giai đoạn 4 - giai đoạn cuối
Giai đoạn này được coi là giai đoạn nguy hiểm nhất của bệnh. Các tế bào ung thư đã di căn và lan rộng đến xương cũng như các bộ phận khác trong cơ thể. Ở giai đoạn này, các bộ phận quan trọng như não, gan, phổi và xương đều có thể bị ung thư di căn. Bệnh nhân sẽ được điều trị toàn thân tích cực để điều trị ung thư vú giai đoạn cuối.
GS Thuấn cho biết, với ung thư vú nếu phát hiện ở giai đoạn sớm tỉ lệ chữa khỏi đến 95%. Tuy nhiên tại Việt Nam, vẫn có đến 50% bệnh nhân ung thư vú đến viện ở giai đoạn muộn.
Trong khi đó, việc tầm soát, sàng lọc có ý nghĩa vô cùng quan trọng với phát hiện sớm ung thư vú. Trong giai đoạn 2008-2010, qua sàng lọc 70.980 phụ nữ tại 7 tỉnh/thành phố, tỷ lệ phát hiện ung thư vú qua sàng lọc là 59,2/100.000 phụ nữ là khá cao, cho thấy hiệu quả khi triển khai các chương trình này tại cộng đồng.
Vì vậy, ông khuyến cáo mọi chị em phụ nữ cần tự khám vú mỗi tháng, bắt đầu đến viện khám sàng lọc khi từ 40 tuổi trở lên, cần sớm hơn ở những đối tượng nguy cơ cao.
Ngoài thăm khám bệnh định kỳ, người bệnh cũng nên thực hiện một lối sống lành mạnh, ăn nhiều rau xanh, thể dục thể thao để tăng cường sức đề kháng cho cơ thể.