Trên 70% trường hợp ung thư vú được chữa khỏi!

(Dân trí) - Đó là nhận định của PGS.TS Trần Văn Thuấn, Phó Giám đốc Bệnh viện K, Viện trưởng Viện nghiên cứu phòng chống ung thư tại Hội thảo Đào tạo nâng cao cho bác sĩ tuyến Trung ương về cập nhật điều trị ung thư vú diễn ra ngày 17/7 tại Hà Nội.

Trong những năm gần đây, ung thư vú nổi lên như 1 vấn đề xã hội với tỉ lệ tử vong và thường gặp đứng thứ 2 trong các bệnh ung. Tại Việt Nam, ước tính mỗi năm có thêm 14.000 phụ nữ mắc ung thư.

NghiênȠcứu năm 2000 cho thấy tỉ lệ mắc ung thư vú chuẩn theo tuổi là 17,4/100.000 dân nhưng sau 3 năm (2011) tỉ lệ này đã lên tới 29,9/100.000 dân.

Tuy nhiên, điều may mắn là 80% bệnh nhân ung thư vú có thể được cứu sống bằng các biện pháp phát hiệnȠsớm, điều trị đặc hiệu như phẫu thuật, xạ trị, hoá chất và kết hợp với các phương pháp điều trị khác.

Theo PGS Trần Văn Thuấn, trình độ khám, phát hiện và điều trị ung thư vú ở Việt Nam nói riêng (và ung thư nói chung) tương đương với các nước khác trong khu vực với các kĩ thuật, phương pháp điều trị ung thư vú hiện đại như phẫu thuật, xạ trị, toàn thân (gồm xạ trị, nội tiết, sinh học, …).

Trong đó, phẫu thuật bảo tồn để giảm số mô lấy đi, tiết kiệm mô tái tạo để giữ tối đa hìnhȠdáng ngực cho người phụ nữ đang trở thành xu hướng. Sau phẫu thuật bảo tồn có thể tạo hình để ngực có hình dạng tương đối so với ban đầu.

Phẫu thuật bảo tồn được xem xét áp dụng cho bệnh nhân có kích thước khối u nhỏ (dưới 3cm) và nằm xa trɵng tâm. Tuy nhiên, với các khối u to, sau khi hóa trị để thu nhỏ kích thước cũng có thể áp dụng phẫu thuật bảo tồn.

Ngoài ra có thể vét hạch cửa đối với điều trị bệnh nhân ung thư vú để hạn chế ảnh hưởng gây phù tay do chèn ép, tàn phá mang lại.

Về xạ trị, hiện có xu thế xạ trị một phần (thay vì xạ trị toàn bộ). Đặc biệt trong giai đoạn sớm có thể áp dụng tia xạ điều tuyến liều tập trung vào khối u để giảm tác hại với tế bào lành.

Về điều trị hóa chất, hiện có nhiều loạɩ hóa chất mới ra đời giảm tác động tiêu cực tới mô lành. Ngoài ra có thể phối hợp các hoạt chất có cơ chế khách nhau để cùng lúc đánh vào mô ung thư làm tăng hiệu quả điều trị.

Trong điều trị nội tiết, có thể sử dụng các kháng thể đơn dòng, đặc trị trong các trường hợp có yếu tố phát triển các mô dương tính, mang lại hiệu quả độŴ biến. Tuy nhiên, điểm hạn chế của thuốc này là giá đắt, BHYT mới chi trả 40%.

Ngoài ra, hiệu quả của việc điều trị ung thư vú phụ thuộc lớn và giai đoạn phát hiện và kích thước khối u, độ mô học, độ hạch nách và một số yếu tố khác song nhìn ţhung phát hiện càng sớm thì điều trị càng đơn giản và hiệu quả, tỉ lệ khỏi cao.

Theo đó, trên 70% bệnh nhân ung thư vú tại BV K được chữa khỏi, tức là trong vòng 5 năm bệnh không tái phát, không di căn (nghiên cứu năm 2010). Tỉ lệ này tương đương với tỉ lệ tại Singapore.

Trần Phương