1. Dòng sự kiện:
  2. Viện Y dược học dân tộc TPHCM

Mỗi năm thêm 22.000 ca mắc mới ung thư vú, 9.000 trường hợp tử vong

Tú Anh

(Dân trí) - Tại Việt Nam, ung thư vú là bệnh lý phổ biến, chiếm 25% bệnh ung thư ở nữ giới. Ung thư vú phát hiện ở giai đoạn sớm, tỷ lệ sống sau 5 năm đạt 98%. Tuy nhiên, ở giai đoạn cuối, tỷ lệ này còn 10%.

Tại Hội nghị khoa học với chủ đề "Cập nhật kiến thức trong chẩn đoán và điều trị ung thư vú," diễn ra ngày 2/4 tại Hà Nội, TS.BS Nguyễn Thu Hương - Giám đốc Service Line và IPU Vú, Bệnh viện ĐKQT Vinmec Times City; Cố vấn chuyên môn cho mạng lưới Ung thư Vú Việt Nam cho biết, thống kê của Tổ chức Ghi nhận Ung thư toàn cầu (Globocan), tại Việt Nam mỗi năm ung thư vú chiếm 25% bệnh ung thư ở nữ giới với gần 22.000 ca mắc mới và hơn 9.000 ca tử vong.

Tại Việt Nam, trình độ, kỹ thuật điều trị ung thư vú tiệm cận các nước phát triển, với tỷ lệ điều trị ung thư vú giai đoạn sớm sống sau 5 năm lên tới 98%. Tuy nhiên, ở giai đoạn cuối, tỷ lệ này chỉ còn khoảng 10%.

Mỗi năm thêm 22.000 ca mắc mới ung thư vú, 9.000 trường hợp tử vong - 1

GS.TS Đào Thu Hà đánh giá, trình độ chẩn đoán phát hiện sớm, điều trị ung thư vú của Việt Nam tương đương nhiều nước phát triển (Ảnh: PV).

TS Hương đánh giá, trình độ chẩn đoán sớm và điều trị ung thư vú ở Việt Nam đang tiệm cận với xu hướng ở các quốc gia có nền y học phát triển như Pháp hay Hàn Quốc, giúp người bệnh có cơ hội được điều trị tốt hơn, đảm bảo chất lượng cuộc sống.

Cùng quan điểm này, GS.TS Đào Thu Hà - Trưởng đơn vị hình ảnh tuyến vú, Bệnh viện Henri Mondo (Cộng hòa Pháp) cho biết, việc áp dụng các kỹ thuật tiên tiến về chẩn đoán và can thiệp ung thư vú sẽ giúp bệnh nhân có được kết quả điều trị tích cực, khả quan ngay tại Việt Nam mà không cần ra nước ngoài.

Mỗi năm thêm 22.000 ca mắc mới ung thư vú, 9.000 trường hợp tử vong - 2

Sinh thiết cho bệnh nhân ung thư vú dưới hướng dẫn của X-quang (Ảnh: PV).

Tại hội nghị, các chuyên gia đã trình bày 13 bài báo cáo chuyên sâu về các phương pháp trong chẩn đoán, can thiệp sớm và điều trị ung thư vú, trong đó kỹ thuật sinh thiết tổn thương vú dưới hướng dẫn X-quang và xạ hình hạch gác trong mổ cũng được giới thiệu. Đây là các kỹ thuật phức tạp đang được ứng dụng tại Đơn vị Bệnh lý tuyến Vú, Bệnh viện ĐKQT Vinmec Times City, giúp phát hiện sớm bất thường liên quan tới ung thư vú để đưa ra phương pháp can thiệp kịp thời, mang lại hiệu quả điều trị cao cho bệnh nhân.

"Trong chẩn đoán bệnh, có những tổn thương vú hoàn toàn không nhìn thấy được trong siêu âm mà chỉ được phát hiện thông qua chụp X-quang, đòi hỏi sinh thiết mẫu bệnh phẩm dưới hướng dẫn X-quang để có được kết quả chính xác nhất. Kỹ thuật này sẽ giúp chẩn đoán sớm và chính xác nhiều trường hợp đặc biệt khó như trên bệnh nhân có túi ngực, trường hợp vú rất mỏng hay ca bệnh với các cụm vi vôi hóa rất nhỏ chỉ 2mm", TS Hương thông tin.

Trong khi đó, về điều trị, kỹ thuật xạ hình hạch gác trong phẫu thuật cũng là một kỹ thuật mới, tiên tiến và mang lại lợi ích to lớn cho người bệnh. Hạch gác là một hạch, hoặc một nhóm hạch đầu tiên mà các tế bào ung thư xuất hiện trước khi lây lan đến các hạch khác.

"Với kỹ thuật này, các bác sĩ sẽ xác định chính xác vị trí hạch gác để bóc tách trong phẫu thuật, giúp bệnh nhân tránh được việc nạo vét hạch không cần thiết, từ đó giảm thiểu các biến chứng như rối loạn cảm giác, phù tay, mất thẩm mỹ cho người bệnh", TS Hương nói.

Không chỉ cập nhật kiến thức về các phương pháp mới, trong khuôn khổ hội nghị, các bác sĩ tham dự đã trực tiếp thực hành trên mô hình một số kỹ thuật can thiệp dưới hướng dẫn siêu âm (chọc hút tế bào bằng kim nhỏ, sinh thiết tổn thương vú bằng kim lõi và kim lớn) và hướng dẫn X-quang (đặt định vị kim dây, sinh thiết tổn thương tuyến vú bằng kim lớn).

Tại Việt Nam, bệnh nhân ung thư có tới trên 70% là phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn. Càng phát hiện muộn thì việc điều trị càng phức tạp, tốn kém và hiệu quả càng thấp. 

Với ung thư vú là bệnh ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ Việt Nam, vẫn có 50% bệnh nhân ung thư vú đến khám ở giai đoạn muộn. Xu hướng mắc ung thư vú có chiều hướng gia tăng qua các năm. Cụ thể, năm 2013 tỷ lệ mắc ung thư vú chuẩn theo tuổi là khoảng 24.4/100.000 phụ nữ, đến năm 2018 tăng lên tới 26.4. Ước tính trung bình mỗi năm trên toàn quốc có hơn 15.000 chị em mắc ung thư vú, trên 6.000 trường hợp tử vong, thường xuyên có 42.000 chị em mắc đang sống chung với bệnh.

Việc tầm soát, sàng lọc có ý nghĩa vô cùng quan trọng với phát hiện sớm ung thư vú. 

Các chuyên gia cũng khuyến cáo, người Việt mắc ung thư vú trẻ hơn so với các nước, vì thế, chị em phụ nữ cần được tầm soát ung thư vú từ tuổi 40. Mỗi năm, nên thực hiện tầm soát ung thư vú một lần. Ngoài ra, mỗi tháng, chị em nên chủ động tự khám vú sau mỗi kỳ kinh nguyệt để kịp thời phát hiện nguy cơ sớm nhất.