Chủ quan với biểu hiện này, người đàn ông bị ung thư di căn gan
(Dân trí) - Sau khoảng 3 tháng bị đau bụng, thỉnh thoảng rối loạn tiêu hóa, mệt mỏi, ăn kém, sút 5kg, bệnh nhân vào viện khám thì phát hiện bị ung thư đại tràng sigma di căn gan (giai đoạn IV).
Đây là một bệnh nhân ung thư đại tràng sigma di căn gan đa ổ đã được điều trị hiệu quả bằng hóa trị kết hợp với thuốc kháng thể đơn dòng Cetuximab. Bệnh nhân là ông L.T.D., 68 tuổi, ở Hà Nội.
Khoảng 3 tháng trước, ông D. bị đau bụng vùng hố chậu trái, thỉnh thoảng rối loạn tiêu hóa (lúc lỏng, lúc táo), mệt mỏi, ăn kém, gầy sút 5 kg. Ông vào Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) để khám bệnh và điều trị. Bệnh nhân có tiền sử khỏe mạnh, không hút thuốc lá, gia đình cũng không có ai bị ung thư.
Theo BSCKII Nguyễn Đức Luân, bệnh nhân vào viện với thể trạng gầy, cao 165cm, nặng 50kg, không sờ thấy hạch ngoại vi. Kết quả nội soi đại trực tràng phát hiện có khối u sùi loét vùng đại tràng sigma gây hẹp lòng đại tràng. Sinh thiết tổn thương cho kết quả ung thư biểu mô tuyến biệt hóa vừa.
Kết quả chụp cắt lớp vi tính ổ bụng cho thấy có hình ảnh khối nhu mô gan hạ phân thùy V gan phải kích thước 25x36 mm, sau tiêm ngấm thuốc, u đại tràng sigma kèm hạch vùng lân cận. Bệnh nhân được chẩn đoán ung thư đại tràng sigma di căn gan (giai đoạn IV).
PGS.TS Phạm Cẩm Phương, Giám đốc Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu cho biết bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật triệt căn (phẫu thuật cắt đoạn đại tràng Sigma và nhân di căn gan), sau đó điều trị bổ trợ sau phẫu thuật. Tuy nhiên, gia đình và bệnh nhân không đồng ý phẫu thuật. Vì vậy, các bác sĩ đã lựa chọn phương án là liệu pháp toàn thân kết hợp với đốt sóng cao tần nhân di căn gan.
Sau 6 chu kỳ hóa chất, bệnh nhân có thể trạng tốt, tăng 2kg, không còn đau bụng, rối loạn tiêu hóa, chất chỉ điểm u giảm rõ rệt và nằm trong giới hạn bình thường. Kết quả chụp CT ổ bụng có hình ảnh khối giảm tỉ trọng gan hạ phân thùy V kích thước 25x30 mm, không ngấm thuốc sau tiêm.
Sau đó, bệnh nhân được phẫu thuật cắt đoạn đại tràng sigma, lập lại lưu thông tiêu hóa, đồng thời điều trị hóa chất đủ 12 chu kỳ. Bệnh nhân được điều trị duy trì với Capecitabine đơn chất.
Kết quả khám định kỳ cho thấy tình trạng bệnh nhân ổn định, không thấy tổn thương tái phát di căn, tổn thương gan giảm kích thước và không ngấm thuốc đối quang từ.
Theo PGS Phương, phác đồ đã giúp kéo dài thời gian sống thêm không tiến triển, sống thêm toàn bộ cho người bệnh. Đốt sóng cao tần nhân di căn gan có thể là phương pháp điều trị thay thế phẫu thuật đối với bệnh nhân không đồng ý phẫu thuật hoặc không đủ điều kiện phẫu thuật.
GS.TS. Mai Trọng Khoa, Nguyên Giám đốc Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu cũng cho biết tại Việt Nam ung thư đại trực tràng đứng thứ năm trong các bệnh ung thư. Một số yếu tố nguy cơ gây bệnh gồm chế độ ăn ít rau, nhiều chất béo, mắc các bệnh lý đại - trực tràng (viêm loét mạn tính, polyp, bệnh Crohn, bệnh đa polyp đại trực tràng...).
Trong các loại ung thư đường tiêu hóa, ung thư đại trực tràng là loại ung thư có liên quan chặt chẽ với các yếu tố nguy cơ gây bệnh cũng như các yếu tố di truyền. Bệnh nếu được chẩn đoán sớm thì tiên lượng tốt, có thể khỏi bệnh hoàn toàn, do vậy việc sàng lọc, chẩn đoán sớm đóng vai trò quan trọng. Chẩn đoán xác định dựa vào các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng.
Theo chuyên gia, khi bệnh ở giai đoạn sớm phương pháp điều trị chủ yếu là phẫu thuật. Các phương pháp hóa trị, điều trị đích thường được chỉ định khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, đã có di căn xa. Việc sử dụng các thuốc điều trị đích (các thuốc chống tăng sinh mạch, kháng thể đơn dòng như Bevacizumab, Cetuximab…) kết hợp với hóa trị cho các bệnh nhân ung thư đại trực tràng giai đoạn di căn (bước 1, bước 2) đã giúp tăng thời gian sống và chất lượng sống cho người bệnh.