Thay đổi tiêu chí đánh giá, xếp hạng đơn vị hành chính loại I, II, III

Hằng Nguyễn

(Dân trí) - Khung điểm “xếp hạng” đơn vị hành chính được thiết kế lại theo hướng đánh giá năng lực phát triển và chuyển đổi số, thay vì chỉ dựa vào quy mô như trước.

Bộ Nội vụ vừa gửi Bộ Tư pháp hồ sơ thẩm định dự thảo Nghị định về phân loại đơn vị hành chính. 

Chuyển trọng tâm từ quy mô sang trình độ phát triển

Theo dự thảo Tờ trình, Nghị quyết 1211 trước đây "mang tính thiên lệch về quy mô", chú trọng dân số, diện tích, số đơn vị trực thuộc; nhóm tiêu chí phản ánh trình độ phát triển chỉ dừng ở các chỉ số truyền thống, chưa bao quát các yếu tố "động" như năng suất lao động, mức độ chuyển đổi số, cải cách thủ tục hành chính. Hệ quả là địa phương đông dân, rộng lớn thường được xếp loại cao, trong khi nơi quy mô nhỏ nhưng cải cách mạnh lại khó cải thiện phân loại.

Dự thảo mới vẫn giữ tổng điểm tối đa 100, nhưng phân bổ lại theo ba nhóm tiêu chí: quy mô (dân số, diện tích, số đơn vị trực thuộc) chiếm 50 điểm; điều kiện kinh tế - xã hội chiếm 40 điểm; và yếu tố đặc thù chiếm 10 điểm.

Ở nhóm đơn vị cấp xã (xã, phường, đặc khu), cách phân bổ này thể hiện cụ thể hơn: quy mô dân số tối đa 25 điểm, diện tích tối đa 25 điểm, kinh tế - xã hội tối đa 40 điểm và đặc thù tối đa 10 điểm.

Cùng với đó, dự thảo bổ sung cơ chế điểm tăng thêm theo tỷ lệ phần trăm mức chênh lệch khi địa phương vượt các ngưỡng chuẩn của tiêu chuẩn/tiêu chí, giúp thang điểm có độ mở với những nơi bứt phá.

Thay đổi tiêu chí đánh giá, xếp hạng đơn vị hành chính loại I, II, III - 1

Các tiêu chí phân loại đơn vị hành chính sẽ chú trọng hơn vào trình độ phát triển (Ảnh minh họa: Vinhomes).

Cấu trúc 50 - 40 - 10

Nhóm 40 điểm kinh tế - xã hội được chia nhỏ, định lượng rõ. Bên cạnh các chỉ báo về cân đối ngân sách, cơ cấu kinh tế, thu nhập bình quân, tỷ lệ nghèo…, dự thảo lần đầu đưa vào các chỉ số "động": tốc độ tăng năng suất lao động, tỷ lệ người tham gia BHXH, tỷ lệ hộ gia đình có kết nối Internet, tỷ lệ hồ sơ thủ tục hành chính được xử lý trực tuyến toàn trình.

Các chỉ số "số hóa" được định nghĩa và cách đo lường trong Phụ lục phương pháp thu thập, tính toán nhằm bảo đảm thống nhất dữ liệu: thế nào là "hồ sơ trực tuyến toàn trình"; cách xác định "hộ gia đình có kết nối Internet"; cách tính "tốc độ tăng năng suất lao động"…

Ở cấp tỉnh, dự thảo quy định thang điểm chi tiết cho các chỉ tiêu kinh tế - xã hội theo logic "vượt bình quân quốc gia thì cộng điểm theo bậc", ví dụ: tỷ trọng công nghiệp - xây dựng - dịch vụ; tốc độ tăng trưởng; tỷ lệ lao động phi nông nghiệp; tốc độ tăng năng suất lao động bình quân; tỷ lệ người tham gia BHXH; thu nhập bình quân đầu người; tỷ lệ hộ nghèo; nước sạch; Internet; tỷ lệ hồ sơ trực tuyến toàn trình,… Những chỉ tiêu này chuyển thông điệp từ "đạt quy mô" sang "nâng chất lượng".

Dự thảo Tờ trình lý giải, việc lựa chọn các tiêu chí "định lượng, minh bạch, dễ truy xuất" còn nhằm quán triệt chủ trương đột phá về khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Giảm thủ tục, tăng tính cập nhật và công bằng

Dự thảo giữ nguyên ngưỡng phân loại I/II/III theo tổng điểm (từ 75 điểm trở lên là loại I) để bảo đảm tính liên tục chính sách, nhưng thay đổi nội dung tiêu chí nhằm phản ánh đúng nỗ lực phát triển của từng địa phương.

Một điểm mới quan trọng là rà soát, phân loại lại định kỳ 5 năm/lần. UBND tỉnh và UBND cấp xã phải lập báo cáo, đối chiếu thay đổi tiêu chí so với kỳ trước, kèm phụ lục số liệu; Bộ Nội vụ và Sở Nội vụ tổ chức thẩm định, khảo sát, công nhận kết quả theo thẩm quyền. 

Về kỹ thuật chấm điểm, cơ quan soạn thảo tiếp thu góp ý địa phương để chuẩn hóa cách làm tròn và biểu thị điểm (lấy đến hai chữ số thập phân; quy tắc làm tròn khi tổng điểm có phần lẻ), bảo đảm tính công bằng giữa các hồ sơ.

Ở nhóm yếu tố đặc thù (10 điểm), dự thảo làm rõ thêm cách tính và phạm vi, trong đó lưu ý tiêu chí di sản văn hóa, di tích đặc biệt hoặc được UNESCO ghi danh… để phản ánh những đặc trưng ảnh hưởng đến phát triển.

Thay đổi tiêu chí đánh giá, xếp hạng đơn vị hành chính loại I, II, III - 2

Dự kiến sẽ rà soát, phân loại lại đơn vị hành chính 5 năm/lần (Ảnh minh họa: DT).

Vì sao phải thay đổi lúc này?

Từ góc độ thực tiễn, sau khi Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành các nghị quyết về sắp xếp ĐVHC năm 2025, cả nước còn 34 ĐVHC cấp tỉnh và 3.321 ĐVHC cấp xã (trong đó 13 đặc khu). Diện tích bình quân cấp tỉnh đạt 9.743 km² (tăng 85,3%), dân số bình quân hơn 3,36 triệu (tăng 85,3%). Nếu giữ thang điểm của Nghị quyết 1211, nhiều chỉ số không còn đủ độ phân hóa để phản ánh vị trí, vai trò, mức độ phát triển giữa các địa phương sau sắp xếp.

Về mặt nguyên tắc, dự thảo cũng cơ cấu lại quy trình và thẩm quyền để đồng bộ với Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025, tăng phân cấp, giảm tầng nấc thủ tục. So với trước đây thẩm quyền công nhận phân loại cấp tỉnh thuộc Thủ tướng, dự thảo phân cấp cho Bộ trưởng Bộ Nội vụ, vừa bảo đảm tính chuyên môn, vừa rút ngắn thời gian xử lý.