DNews

Nhìn lại thời kỳ số lượng tỉnh thành tiệm cận mục tiêu sáp nhập hiện nay

Hoa Lê

(Dân trí) - Trao đổi về phương án đề xuất sáp nhập để giảm khoảng 50% số tỉnh thành, nhà sử học Dương Trung Quốc điểm lại những thời kỳ Việt Nam từng duy trì số lượng tỉnh tiệm cận với mục tiêu sắp xếp hiện nay.

Nhìn lại thời kỳ số lượng tỉnh thành tiệm cận mục tiêu sáp nhập hiện nay

Xung quanh chủ trương chưa từng có tiền lệ trong sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị từ kết luận số 126 và 127-KL/TW của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, phóng viên báo Dân trí có cuộc trao đổi với nhà sử học Dương Trung Quốc về lịch sử hình thành, quá trình chia tách, sáp nhập các tỉnh thành của Việt Nam.

Nhìn lại thời kỳ số lượng tỉnh thành tiệm cận mục tiêu sáp nhập hiện nay - 1

Nhà sử học Dương Trung Quốc (Ảnh: Hoa Lê).

Thời kỳ cả nước chỉ có 31 tỉnh

Từ 63 tỉnh thành hiện nay, cả nước đang chuẩn bị cho một cuộc sắp xếp lịch sử để tinh gọn bộ máy. Cuộc cách mạng sắp xếp bộ máy lần này thế nào dưới góc nhìn của một người nghiên cứu lịch sử cũng như người từng chứng kiến nhiều thay đổi của đất nước 50 năm qua như ông?

- Lịch sử nước ta đã trải qua nhiều lần chia tách, sáp nhập tỉnh. Trước sự thay đổi của yếu tố diện tích, dân số, tự nhiên, kinh tế - xã hội… buộc mỗi triều đại, nhà nước cần có sự phân chia đơn vị hành chính cho phù hợp. Quốc gia nào cũng vậy và Việt Nam cũng không ngoại lệ.

Lãnh thổ nước ta có đặc điểm trải dài từ Bắc vào Nam. Có thể nói, dưới triều Nguyễn (1802-1945) thì lãnh thổ tương đối hoàn chỉnh, trong đó có việc quản lý lãnh thổ.

Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, thống nhất đất nước năm 1802, vua Gia Long nghĩ ngay đến việc xây dựng kinh thành, đặt nền móng lâu dài cho vương triều Nguyễn. 

Việc vua Gia Long chọn đất Phú Xuân làm quốc đô có rất nhiều lý do. Trong đó có lý do khách quan là đóng đô ở miền Trung để tiện liên lạc với cả hai miền Nam, Bắc. Bởi vào thời đó, phương tiện giao thông, cách thức liên lạc còn thô sơ và chậm chạp.

Nguyên lý quan trọng khác để cơ quan quản lý nhà nước tìm được mô hình tổ chức bộ máy chính quyền tương đối ổn định, trở thành hệ quy chiếu để nhìn nhận việc phân chia hành chính cho đến bây giờ nằm ở cuộc cải cách của vua Minh Mạng - vị hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn.

Nhìn lại thời kỳ số lượng tỉnh thành tiệm cận mục tiêu sáp nhập hiện nay - 2
Nhìn lại thời kỳ số lượng tỉnh thành tiệm cận mục tiêu sáp nhập hiện nay - 3

Trên nền tảng thành quả của Gia Long, vua Minh Mạng đã chia lại đơn vị hành chính, tránh việc tăng cường quyền lực cho thủ lĩnh địa phương… Khi đó, trấn được đổi thành tỉnh. Cả nước khi đó có 30 tỉnh và 1 phủ Thừa Thiên là kinh đô. Dưới tỉnh là phủ, huyện, tổng, xã. Đơn vị hành chính "tỉnh" được hình thành và áp dụng cho đến nay.

Thời kỳ đó Nam Kỳ (Nam Bộ hiện nay) có 6 tỉnh gồm: Phiên An (năm 1836 đổi tên thành Gia Định), Biên Hòa, An Giang, Vĩnh Long, Định Tường và Hà Tiên. Bắc Kỳ có 13 tỉnh gồm: Cao Bằng, Lạng Sơn, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Sơn Tây, Quảng Yên, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội, Nam Định và Ninh Bình. Trung Kỳ gồm phủ Thừa Thiên đặt làm kinh đô và 11 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận.

Việc chia đất nước thành 31 tỉnh là rất gần với ý tưởng sáp nhập tỉnh thành hiện tại, như thông tin lãnh đạo nhà nước đưa ra "dự kiến giảm khoảng 50% số tỉnh". Như vậy, có thể thấy được trong lịch sử nước ta đã có thời kỳ duy trì số tỉnh không quá lớn.

Mỗi quyết định, lựa chọn, theo nguyên lý chung, đều mang tính thời điểm. Thời đất nước có 31 tỉnh như ông đề cập có điểm gì tương đồng so với hiện nay, khi cấp có thẩm quyền thông qua đề án giảm 50% số tỉnh thành?

- Tất nhiên thời Nguyễn dân số Việt Nam ít hơn hiện tại nhiều, cơ cấu xã hội, hoạt động kinh tế cũng rất đơn giản. Trong xã hội phong kiến, hành chính làng xã là đơn vị tự quản, tự trị. Ông lý trưởng do người dân trong xã bầu ra và cũng là người duy nhất tham gia hệ thống quản lý nhà nước.

Nhưng cũng có nguyên lý chung, cấp huyện, tổng nằm ở vị trí thuận lợi để tập hợp tất cả đại diện làng xã, kết nối với kinh thành. Người đại diện nhà nước là nhà vua chỉ có chỉ dấu quan trọng nhất là sắc phong Thành hoàng làng mang giá trị tinh thần. Làng xã lúc này làm tròn nhiệm vụ, nộp đủ thuế, đủ lính và đủ dân công khi cần.

Như vậy, chúng ta thấy được cơ cấu bộ máy hành chính ngày xưa đơn giản, thực chất là 2 cấp. Cấp huyện, tổng ngày xưa chỉ là nơi trung chuyển, biên chế mỏng, nhưng có vị trí thuận lợi về giao thông.

Lần sáp nhập lớn gần đây, trong giai đoạn những năm 1960, ở miền Bắc, Đảng và Chính phủ nhận thấy một số tỉnh diện tích nhỏ, dân số ít và dựa trên các điều kiện kinh tế - xã hội lúc đó đã sáp nhập một số tỉnh như Hải Hưng (Hưng Yên sáp nhập Hải Dương năm 1968), Bắc Thái (Thái Nguyên sáp nhập Bắc Kạn năm 1965), Vĩnh Phú (Vĩnh Phúc sáp nhập Phú Thọ năm 1968)...

Nhìn lại thời kỳ số lượng tỉnh thành tiệm cận mục tiêu sáp nhập hiện nay - 4

Tấm bản đồ Việt Nam năm 1976 với 38 tỉnh thành đăng trên báo Sài Gòn giải phóng.

Sau khi thống nhất đất nước vào năm 1975-1976, công cuộc sáp nhập nhiều địa phương tiếp tục, đến năm 1976, cả nước chỉ có 38 tỉnh, thành.

Khi bước vào thời kỳ đổi mới 1986-1990, do cần các tỉnh gọn hơn, có điều kiện phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng tốt hơn... nên nhiều tỉnh, thành được chia tách. Đến năm 2004 cả nước có 64 tỉnh, thành. Từ năm 2008 sau khi Hà Tây, 4 xã của tỉnh Hòa Bình, huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc) sáp nhập vào Hà Nội thì cả nước còn 63 tỉnh, thành như hiện nay.

Tiêu chí sắp xếp với chiến lược trăm năm

Từ thực tiễn quá trình chia tách, sáp nhập tỉnh trong suốt chiều dài lịch sử, theo ông đâu là điểm khác biệt lớn nhất của đợt sắp xếp đơn vị hành chính lần này so với những lần trước đây, sẽ chi phối hướng sáp nhập?

- Nhìn lại lịch sử, quá trình chia tách đã tạo động lực thúc đẩy các địa phương phát triển. Còn ở thời điểm này, yêu cầu phát triển bộc lộ những tồn tại ở mô hình các địa phương, cần có quy hoạch mới về không gian phát triển cho phù hợp. Bộ máy hành chính thì thấy rõ sự cồng kềnh, tạo ra nhiều điểm nghẽn trong quản lý, vận hành.

Mặt khác, cơ sở hạ tầng phát triển, công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ. Giờ đây ngồi một chỗ cũng có thể bao quát, quản lý được cả không gian rộng lớn.

Nhìn lại thời kỳ số lượng tỉnh thành tiệm cận mục tiêu sáp nhập hiện nay - 5

Ông Dương Trung Quốc đồng tình với chủ trương sắp xếp bộ máy hệ thống chính trị (Ảnh: Hoa Lê).

Tôi đồng tình với chủ trương sắp xếp bộ máy hệ thống chính trị, trong đó có việc sắp xếp cấp tỉnh, không tổ chức cấp huyện và tiếp tục tinh gọn đơn vị hành chính cấp xã. Cùng với việc giảm về số lượng, chủ trương lớn là tăng cường chất lượng và tính hiệu quả trong hoạt động của bộ máy.

Như ông nói thì yêu cầu, tiêu chí với đợt sắp xếp bộ máy đợt này đã rất khác, không chỉ khuôn theo quy mô dân số, diện tích, khu vực nữa mà cần có quy hoạch mới về không gian phát triển. Đây cũng là vấn đề được nhấn mạnh trong chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư? 

- Về tiêu chí khi tiến hành sắp xếp bộ máy, theo Kết luận 127-KL/TW, Bộ Chính trị, Ban Bí thư yêu cầu khi xây dựng đề án sáp nhập cấp tỉnh, ngoài căn cứ về quy mô dân số, diện tích thì cần nghiên cứu kỹ quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch địa phương, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phát triển ngành, mở rộng không gian phát triển, phát huy lợi thế so sánh, đáp ứng yêu cầu phát triển đối với từng địa phương và yêu cầu, định hướng phát triển của giai đoạn mới… để làm cơ sở, căn cứ khoa học trong sắp xếp.

Tôi thực sự rất tán đồng với bộ tiêu chí đề ra, như các lãnh đạo đã nói, việc này thể hiện chiến lược, tầm nhìn đến hàng trăm năm. Cùng với đó, khi sáp nhập, chúng ta tính đến các yếu tố truyền thống văn hóa - lịch sử, vị trí địa chính trị - địa kinh tế…

Ai cũng muốn có cái tên đẹp

Thưa ông, cuộc cách mạng sắp xếp đơn vị hành chính ở địa phương đợt này thu hút sự quan tâm của người dân cả nước. Ngay vấn đề đặt tên tỉnh thành mới, chọn trung tâm hành chính như thế nào, mỗi người dân đều mong chờ. Có nguyên tắc nào để xác định những vấn đề này?

- Bộ Chính trị, Ban Bí thư có nêu rõ các tiêu chí phải lưu tâm khi sáp nhập tỉnh. Song thực tế quá trình thực hiện, cơ quan thực thi sẽ phải giải nhiều bài toán khó vì sáp nhập tỉnh, xã liên quan con người, lịch sử, văn hóa, truyền thống, trong đó có chuyện đặt tên tỉnh thành sau khi sáp nhập rõ ràng cũng không đơn giản.

Nhìn lại thời kỳ số lượng tỉnh thành tiệm cận mục tiêu sáp nhập hiện nay - 6
Nhìn lại thời kỳ số lượng tỉnh thành tiệm cận mục tiêu sáp nhập hiện nay - 7

Tôi tâm đắc với chia sẻ trên báo chí của Tổng Bí thư Tô Lâm trong buổi làm việc với Tiểu ban kinh tế - xã hội, chuẩn bị cho Đại hội Đảng XIV tới đây: "Khi sáp nhập có tâm lý, tâm trạng về quê hương thì đúng rồi, tôi hết sức chia sẻ. Nhưng đất nước chính là quê hương, chúng ta phải vì sự phát triển chung. Sáp nhập để gọn lại, tiết kiệm chỉ là một phần, sáp nhập để tạo động lực, tạo dư địa cho phát triển mới là quan trọng".

Dù không thể bỏ qua tâm lý xã hội, yếu tố con người gắn liền với địa danh, lịch sử… song chúng ta cũng phải nghĩ rộng hơn là thực hiện việc sáp nhập vì sự phát triển chung của đất nước. Thực hiện sáp nhập tỉnh với mục tiêu to lớn giúp đời sống của người dân tốt lên, chứ không phải vì cái tên bởi địa danh nào, vùng đất nào, giai đoạn lịch sử nào thì cũng vẫn còn đó.

Tên gọi là để định vị của không gian. Như dự kiến, chúng ta thực hiện sáp nhập tối thiểu 2 và tối đa 3 tỉnh. Tôi biết có nhiều ý kiến cho rằng nên chọn 1 tỉnh đặt làm tên gọi chung. Thuận lợi lớn là ít nhất một nửa hay một phần ba tỉnh sau sáp nhập không phải thay đổi, xáo trộn gì. Dù vậy, không phương án nào thỏa mãn được mọi mong muốn, nguyện vọng.

Với quan điểm trở lại lưu giữ, bảo tồn giá trị lịch sử, văn hóa thì những tên từng đi vào lịch sử như Hà Nam Ninh được thành lập trên cơ sở sáp nhập tỉnh Nam Hà (Hà Nam và Nam Định) với tỉnh Ninh Bình năm 1976 cũng là hướng hay...

Bên cạnh đó, với những địa phương sáp nhập mới có thể áp dụng phương pháp ghép từ, thuận về âm tiết để có thể toát lên thông điệp. Người xưa hay dùng mỹ tự đặt cho tên tỉnh để nói về sự ổn định, an bình, phát triển, giàu có… Bởi ai cũng muốn có một cái tên đẹp.

Với hướng thay đổi tên kéo theo nhiều vấn đề thì tôi cho rằng cũng có công cụ để khắc phục trong thời đại số.

Bên cạnh lựa chọn tên gọi của tỉnh sau sáp nhập, trung tâm chính trị - hành chính cần xác định dựa trên căn cứ vị trí địa lý, hạ tầng cơ sở. Với những hạ tầng dôi dư sau sáp nhập có thể tận dụng vào làm cơ sở giáo dục. Lúc này tên gọi của trường học có thể lấy theo địa danh hành chính cũ. Đây cũng là cách lưu giữ giá trị lịch sử.

Nhìn chung, việc lựa chọn tên gọi hay vị trí trung tâm hành chính của tỉnh mới phải có nghiên cứu, đánh giá kỹ càng, lấy ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, người dân ở địa phương cho thấu đáo, đồng thuận.

Xin cảm ơn ông về những thông tin trao đổi thú vị!