Vỡ nợ - hậu quả của tâm lý hám lợi
“Tại sao lại vào thời điểm hiện nay?” - TS Trịnh Duy Luân, viện trưởng Viện Xã hội học VN, đặt ra câu hỏi như vậy về các vụ vỡ nợ vừa qua, đồng thời cho rằng hầu hết các vụ vỡ nợ tín dụng không chính thức đều có liên quan đến kinh doanh bất động sản.
Cần có thêm khảo sát để có số liệu cụ thể nhưng tôi cho rằng hầu hết các vụ vỡ nợ vừa qua đều có liên quan đến kinh doanh bất động sản.
Hiện thị trường này đang bị chao đảo, đóng băng và rối loạn bởi các chính sách thắt chặt tín dụng. Nhiều “đại gia” đang bị dồn vào chân tường, khó khăn về vốn, đứng trước nguy cơ phá sản và vỡ nợ. Hiện tượng tín dụng không chính thức đã tồn tại khá lâu nhưng đến bây giờ mới có điều kiện bùng phát.
Về mặt pháp lý, đây là một quá trình giao dịch tự nguyện của hai bên, các chủ nợ và con nợ, không bị ép buộc bởi bên nào và cũng không nhờ đến sự bảo trợ của pháp luật. Đây chỉ là các giao dịch dân sự thông thường nên tôi muốn gọi đó là các giao dịch không chính thức, tín dụng không chính thức, giống như nhiều loại hình tín dụng không chính thức khác trong nhân dân ở quy mô nhỏ như việc chơi hụi, chơi họ, cùng góp vốn đầu tư...
Vấn đề xã hội là phải tìm hiểu xem trong các giao dịch này chủ nợ và con nợ là ai, động cơ nào dẫn đến các giao dịch, nguyên nhân nào dẫn đến các hậu quả như hiện nay.
Trung tướng Nguyễn Đức Nhanh, tổng cục phó Tổng cục An ninh II kiêm giám đốc Công an Hà Nội, khi trả lời trên truyền hình có nói bên cạnh thủ đoạn làm ăn bất chính, lừa đảo của chủ nợ còn có sự giúp sức của chính nạn nhân, hay gọi thẳng là thói hám lợi. Ông nghĩ sao về chuyện này?
Cũng không sai, nếu nói nguyên nhân sâu xa của hiện tượng này là tâm lý hay “máu” hám lợi của các nhà đầu tư, bất chấp các quy luật phổ biến của kinh tế thị trường. Tâm lý hám lợi luôn mang tính bản năng như một đặc trưng của kinh tế thị trường.
Thế nhưng một nguyên lý rất đơn giản mà không cần phải là nhà kinh tế cũng có thể được nghe và đồng ý trong hoạt động đầu tư và kinh doanh: lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Tuy nhiên trong một nền kinh tế thị trường, mọi việc đều có thể xảy ra, dù đó là việc kỳ quái nhất và khó tin nhất.
Ta hãy thử đoán xem chủ nợ trong các vụ vỡ nợ này là ai. Chắc chắn số đông không phải là người nghèo. Họ có bạc tỉ, chí ít cũng vài trăm triệu đồng. Tiền này họ có được do đâu? Không ít người kiếm được bằng những cách thức khá dễ dàng, do nhiều cơ may, thậm chí từ những khoản đầu tư siêu lợi nhuận trước đó. Tức là trước đó có được tiền bằng các phương pháp nhiều rủi ro. Vì thế, họ có cơ sở tài chính và cả tâm lý để tiếp tục chơi trò rủi ro trên cơ sở thói hám lợi cố hữu.
Một nhóm người khác, có tiền nhưng ít kiến thức, không biết đầu tư kinh doanh vào đâu, không được tư vấn, không lường trước được rủi ro, lại bị tâm lý hám lợi thôi thúc cũng tự nguyện trở thành con mồi của các con nợ.
Còn các con nợ “đại gia” là ai? Tôi không cho rằng tất cả họ đều là những kẻ lừa đảo chuyên nghiệp. Sẽ có một bộ phận là các nhà đầu tư bất động sản, chứng khoán, vàng... Họ có thể đã có những thành công ở chặng đầu và không biết hoặc không thể dừng chân, hăm hở lao vào các phi vụ phiêu lưu mới.
Ông bà ta thường nói “Đi đêm có ngày gặp ma”, đến khi “gặp phải ma” thì họ vùng vẫy, quẫy đạp để thoát ra. Hoàn cảnh xô đẩy dẫn họ trở thành kẻ lừa đảo trong mắt các chủ nợ, công luận và luật pháp.
Ở đây, cũng cần đề cập cả cơ sở thực tiễn cho hiện tượng này. Đó là sự tồn tại một loại thị trường ngầm, thị trường “đen“, không kiểm soát được và có phần “hoang dã” ở nước ta. Đây là sản phẩm của những khiếm khuyết về cơ chế, pháp luật chưa đầy đủ, bị các cá nhân lợi dụng và thao túng... Thị trường này đặc biệt quen thuộc trong lĩnh vực buôn bán bất động sản, làm giá chứng khoán, vàng...
Đương nhiên, có những con nợ vốn là những kẻ lừa đảo chuyên nghiệp, có ý đồ, thủ đoạn được thiết lập ngay từ đầu. Chúng nắm rõ tâm lý “hám lợi” và có những thủ đoạn tinh vi để câu nhử các con mồi. Với đối tượng này, rõ ràng pháp luật phải vào cuộc. Rất tiếc là ranh giới để phân biệt loại con nợ này với loại thứ nhất không hề dễ dàng.
Theo những nghiên cứu của ông, ở VN có bao giờ xã hội lâm vào cơn “vỡ nợ dây chuyền” như hiện nay?
Trong thập niên 1980, khi chúng ta chuẩn bị chuyển sang cơ chế thị trường, từng có một đợt sóng vỡ nợ các loại “tín dụng nhân dân”, HTX tín dụng, khiến không ít người dân ở đô thị mất trắng tài sản dành dụm cả đời. Nhưng lúc đó hầu hết họ là người lao động, đặc biệt họ chưa hề có một chút kiến thức gì về kinh tế thị trường, về tín dụng, vay nợ... Đó có thể xem là “cơn sốt vỡ da” của người dân khi chuyển từ thời kỳ bao cấp sang cơ chế thị trường.
Còn bây giờ, sau gần 30 năm phát triển kinh tế thị trường, đáng ngạc nhiên là chúng ta vẫn tiếp tục chứng kiến sự xuất hiện các nạn nhân mới của hiện tượng “hám lợi và hoang tưởng”. Phải chăng đây là “cơn sốt vỡ da” thứ hai?
Như vậy, ít nhất có hai chiều cạnh cần chú ý. Thứ nhất, có thể đó là sự phản ánh một loại hệ quả của kinh tế thị trường trong những giai đoạn hiện tại. Thứ hai, có một bộ phận dân chúng đang rất thiếu hụt kiến thức và thông tin phổ thông về kinh tế thị trường, tài chính tín dụng. Và do vậy, các hoạt động truyền thông kiến thức, hỗ trợ tư vấn về pháp lý và về đầu tư rất cần được tăng cường.
Phải bớt đi các yếu tố “đen”
Theo GS.TS Trần Ngọc Thơ (ĐH Kinh tế TP.HCM), thực chất các vụ đổ vỡ do vay mượn trong dân gian cũng là cấp tín dụng như ngân hàng, nhưng khác cơ bản đó là “đen”. Hạn chế đổ vỡ, cách tốt nhất là bớt đi các yếu tố “đen”. Ông Thơ nói: “Đen” được hiểu là không theo luật pháp như lãi suất cao, lãi nhập vốn, không theo thông lệ như cho vay phải có đăng ký, không được cho vay đảo nợ. “Đen” là vì người cho vay không yêu cầu bên đi vay có phương án kinh doanh hiệu quả, có tài sản thế chấp...
Theo ông, cái mà người cho vay lãi suất cao thường mắc phải là gì?
Với người đi vay, họ thường làm ăn theo kiểu đến đâu hay đến đó, chẳng có phương án kinh doanh với đầu vào, chi phí, đầu ra hoặc chu kỳ thu hồi vốn. Không những thế, họ chấp nhận rót tiền vào những dự án kinh doanh cực kỳ rủi ro như đầu cơ bất động sản, lướt sóng vàng, đầu tư chứng khoán.
Trong khi đó người cho vay thiếu hẳn thông tin về người đi vay. Họ cho vay không theo nguyên tắc nào cả. Người cho vay chỉ nghe chứ ít khi biết được người vay dùng tiền làm gì. Họ cũng chẳng biết người vay đã mất khả năng thanh toán. Khi rơi vào trường hợp này thì bên đi vay lại ra sức tô điểm để được vay thêm tiền nhằm gỡ gạc hoặc trả cho những người đã vay trước.
Phải chăng kinh tế khó khăn là nguyên nhân dẫn đến vỡ nợ hàng loạt?
Kinh tế tăng trưởng nóng thì chứng khoán, bất động sản cũng tăng nóng, thu hút giới đầu cơ rót vốn vào, trong đó có những người vay mượn tín dụng đen. Khi địa ốc, chứng khoán đóng băng, giá vàng biến động thất thường cũng là lúc xảy ra vỡ nợ.
Theo tôi, điều này chỉ là một phần hoặc thúc đẩy nhanh quá trình đổ vỡ mà thôi. Nguyên nhân chính nằm ở chỗ mọi giao dịch của các vụ vỡ nợ đều ít nhiều có yếu tố “đen”. Ngay trên thế giới cũng thế, khi kinh tế toàn cầu rơi vào khủng hoảng, hàng loạt vụ đổ bể mới bùng nổ. Khi soi xét kỹ đều có nguyên nhân là làm ăn không chặt chẽ, thậm chí lừa đảo.
Cách nào để nhận diện có nguy cơ rơi vào tín dụng đen hoặc bị lừa đảo?
Lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Cách đơn giản nhất là so sánh lãi suất mà người vay sẽ trả với lãi suất ngân hàng. Nếu thấy mức chênh lệch cao, chắc chắn là có vấn đề. Hiện ngân hàng cho vay lãi suất 1,6-1,7%/tháng đã có người không trả nổi thì sớm hay muộn người vay tín dụng đen lãi suất 5-10%/tháng cũng vỡ nợ. Cũng nên thực hiện theo đúng những gì pháp luật đã cho phép. Khi cho vay phải có hợp đồng công chứng việc vay mượn và có tài sản thế chấp đầy đủ để hạn chế người vay dùng một tài sản đi vay của nhiều người khác.
Đặc biệt, phải nắm rõ người đó dùng vốn vào mục đích gì. Nếu vào bất động sản, chứng khoán là rủi ro rất lớn bởi hình thức đầu tư này mang nặng tính đầu cơ, giá không lên, thanh khoản kém là vỡ nợ. Hết chu kỳ vay, người vay khất hẹn, đó cũng là dấu hiệu của việc làm ăn không hiệu quả, cần phải thận trọng, không nên cho vay thêm...
H.T. |
Tuổi Trẻ