VAMC và nỗi lo hậu mua nợ xấu

Với cách xử lý nợ xấu thông qua Cty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC), dù nợ xấu có giảm, tính chất yếu kém của các ngân hàng hay tính xấu tài sản của các TCTD cũng như nền kinh tế không đổi.

Tính chất không đổi

 

Cùng với các giải pháp trợ giúp tài chính tạo điều kiện cho doanh nghiệp (DN) có tiền trả nợ ngân hàng (NH), việc thành lập một Cty mua bán nợ như mô hình VAMC là giải pháp xử lý nợ xấu được nhiều nước áp dụng. Bằng cách này, nhiều kỳ vọng cho rằng nợ xấu của các NH trên sổ sách sẽ giảm ngay. Song khi nhìn vào cơ chế vận hành của VAMC hiện nay, PGS.TS Phan Thị Thu Hà của Viện Ngân hàng Tài chính (ĐHKTQD) cho rằng, vẫn chưa thể rõ tổ chức này sẽ bán nợ xấu như thế nào.

 

Cơ chế hiện nay quy định, các NH khi đổi nợ xấu lấy trái phiếu VAMC vẫn phải thực hiện trích lập dự phòng 20%. Điểm tích cực với các món nợ nhóm 4 hoặc 5 chính là các NH chỉ cần trích lập 20%, thay vì 50% hay 100% như trước.

 

Giải pháp này dĩ nhiên sẽ giảm gánh nặng tài chính cho các NH trong 1-3 năm đầu và chưa kể số trái phiếu này có thể được chiết khấu lấy vốn kinh doanh. Song theo quan điểm của TS Hà, với tình trạng tăng trưởng tín dụng thấp như năm nay và dự đoán sang cả năm 2014, nhu cầu vốn của các NH sẽ không cao.

 

 Hơn nữa khi cần, dù không có trái phiếu, NH vẫn có thể huy động bằng các hình thức khác. “Như vậy, đối với các NH, vấn đề cốt lõi là có bán đứt được món nợ xấu hay không và bán được bao nhiêu?” – PGS. Hà đặt câu hỏi.

 

Vị chuyên gia đến từ Viện Ngân hàng Tài chính nhìn nhận, không giống như mô hình Cty mua bán nợ Hàn Quốc (Kamco), các khoản nợ xấu của TCTD khi bán cho VAMC vẫn không phải bán đứt. Trường hợp VAMC không xử lý được, các nhà băng vẫn phải tự xử lý.

 

Ở vế thứ hai, VAMC cũng chỉ mua các khoản nợ có khả năng bán cao (thường là có tài sản đảm bảo). Điều này đồng nghĩa với việc, bản thân các NH cũng có thể phát mại các tài sản đảm bảo này dù khả năng rất khó bán trong năm nay do thị trường bất động sản đi xuống.

 

 Với định hướng mua nợ như trên, bản thân các NH lớn cũng khó bán nợ cho VAMC và dễ hiểu tại các NH yếu kém, những khoản nợ có thể bán cho VAMC càng ít. Do đó, theo đánh giá của PGS.TS Phan Thị Thu Hà, dù nợ xấu có giảm, tính chất yếu kém của những NH (bán nợ) vẫn không thay đổi, tính xấu của tài sản của NH cũng như của nền kinh tế không đổi.

 

Cần thật đơn giản

 

Với các phân tích trên đây, việc xử lý nợ qua VAMC được cho phải thật đơn giản về nghiệp vụ, thu hẹp quy mô, phạm vi và chỉ áp dụng với nợ nhóm 4 và nợ nhóm 5. Bà Hà đề xuất, trái phiếu đổi nợ không sinh lãi vì nợ xấu không sinh lãi và cũng để không làm tăng thêm gánh nặng cho VAMC.

 

 Các NH vẫn phải trích lập dự phòng 20% và phải tìm mọi cách tự xử lý bằng các biện pháp nghiệp vụ của NH. Các nghĩa vụ giữa NH và khách hàng sẽ không thay đổi kể cả với tài sản đảm bảo. Khi chiết khấu, thời hạn tối đa 12 tháng phải trả lại NHNN và tỉ lệ chiết khấu sẽ tùy thuộc vào chính sách cung ứng tiền của NHNN và tình trạng kém thanh khoản của NH.

 

NH trích dự phòng đến đâu, giá trị trái phiếu giảm đến đấy và cho đến khi trích đủ 100%, giá trị trái phiếu sẽ bằng không (0). Phía VAMC, sẽ tập trung nghiên cứu để xác định hỗ trợ NH theo hướng đảm bảo thanh khoản cho NH. Cty mua nợ đồng thời cũng nghiên cứu các biện pháp bán nợ và trong trường hợp bán được nợ, VAMC sẽ hưởng phí môi giới, tư vấn bán nợ hoặc mua đứt nợ xấu của NH.

 

Đối tượng mua nợ cũng cần được chia làm hai nhóm. TS Phan Thị Thu Hà đưa ý kiến, VAMC không mua nợ của 5 NHTM nhà nước vì tỉ lệ nợ xấu của nhóm này vẫn thấp. Còn với các NHTM khác, VAMC ưu tiên mua đứt nợ của DNNN nếu các DN này bị phá sản, giải thể hay ngừng hoạt động theo tỉ lệ chiết khấu thỏa thuận giữa NH với VAMC. Toàn bộ quyền và nghĩa vụ đối với nợ sẽ thuộc VAMC và VAMC cần ưu tiên mua CP của các NH yếu kém để tham gia giám sát, thực hiện khẩn trương yêu cầu tái cơ cấu.

 

Biện pháp trên theo nhìn nhận của TS Hà trước hết sẽ dãn thời gian bán tài sản đảm bảo của NH, giảm dự phòng phải trích và giúp NH vay vốn của NHNN với lãi suất 0% với quy mô hạn chế. “Giải pháp này cũng không làm tăng quy mô hoạt động của VAMC, dẫn đến tăng chi phí vận hành chừng nào VAMC chưa chứng minh khả năng bán nợ tốt hơn NH, xác định nghĩa vụ xử lý nợ thuộc về NH và Nhà nước phải gánh một phần tổn thất từ những tài sản xấu của DNNN”.

 

Theo Văn Nguyễn
Lao động