Tăng thuế môi trường xăng dầu: Người dân phải đóng thêm 75.000 tỷ đồng/năm

(Dân trí) - Theo chuyên gia kinh tế, tăng thuế bảo vệ môi trường (BVMT) đối với xăng dầu cần phải được cân nhắc lại bởi xét ở góc độ ngân sách nó không thực sự cần thiết trong khi tăng thuế là đi ngược với xu hướng kích cầu và làm giảm chất lượng sống của người dân.

Ông Nguyễn Đức Hùng Linh - Giám đốc Phân tích và Tư vấn đầu tư khách hàng cá nhân Công ty chứng khoán SSI.
Ông Nguyễn Đức Hùng Linh - Giám đốc Phân tích và Tư vấn đầu tư khách hàng cá nhân Công ty chứng khoán SSI.

Liên quan tới đề xuất nâng khung thuế bảo vệ môi trường đối với mặt hàng xăng dầu lên mức tối đa 8.000 đồng/lít, ông Nguyễn Đức Hùng Linh - Giám đốc Phân tích và Tư vấn đầu tư khách hàng cá nhân Công ty chứng khoán SSI đã có một số bình luận về vấn đề này.

Tăng thuế môi trường là không cần thiết

Thưa ông, mới đây, Bộ Tài chính vừa công bố dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế bảo vệ môi trường (BVMT). Theo đó, khung mức thuế áp dụng cho xăng (trừ ethanol) dự kiến sẽ tăng là 3.000 - 8.000 đồng/lít so với mức 1.000 - 4.000 đồng/lít như hiện nay. Ông đánh giá như thế nào về đề xuất này?

Thuế BVMT đối với xăng dầu đã được tăng từ 1.000 đồng lên 3.000 đồng/lít vào năm 2015 đề bù cho phần thuế nhập khẩu xăng dầu giảm từ 35% xuống 20% theo lộ trình cắt giảm thuế trong cam kết thương mại ASEAN. Trước đó, từ năm 2012 đến 2015, thuế nhập khẩu xăng dầu đã được tăng từ 0% lên 35% để bù đắp thâm hụt ngân sách. Gần đây lại tiếp tục có đề xuất tăng thuế BVMT lên tối đa 8.000 đồng/lít.

Tôi cho rằng, việc tăng thuế BVMT xét ở nhiều góc độ là một lựa chọn không phù hợp.

Có ý kiến chuyên gia cho rằng, việc thu thuế BVMT sẽ giúp bù đắp cho ngân sách phần hụt thu khi thuế nhập khẩu với mặt hàng xăng dầu giảm theo lộ trình các FTA đã ký kết. Vậy theo ông, cân đối ngân sách hiện đang như thế nào và tác động tới thu ngân sách khi tăng thuế BVMT sẽ ra sao?

Thứ nhất, cân đối ngân sách 2017 đang ở trạng thái tốt, tôi cho rằng, không cần thiết phải áp dụng các biện pháp tận thu.

Thu ngân sách 4 tháng đầu năm 2017 đạt 396,4 nghìn tỷ đồng, tăng 17,8% so với cùng kỳ năm ngoái trong khi chi ngân sách là 393,3 nghìn tỷ, tăng 9,8% so với cùng kỳ năm ngoái. So với cùng kỳ 2016, tốc độ thu ngân sách đã tăng nhanh hơn nhiều, nhờ vậy cán cân ngân sách đã chuyển sang thặng dư 3,1 nghìn tỷ đồng trong khi cùng kỳ thâm hụt 53,6 nghìn tỷ đồng. Rủi ro thâm hụt ngân sách giảm đáng kể khi 3/4 tháng đầu năm đều có thặng dư.

Mức tăng 17,8% của thu ngân sách 4 tháng cao hơn khá nhiều mức tăng của dự thu cả năm 2017 là 10,1%. Thu ngân sách tăng tốt là nhờ thuế thu nhập cá nhân tăng 26,1%, thuế liên quan đến XNK tăng 21,4%, thuế VAT và thuế TNDN tăng trở lại sau năm 2016 giảm sút do áp dụng nhiều chính sách ưu đãi.

Chi ngân sách tăng chậm hơn tăng thu nhưng mức 9,8% vẫn cao hơn mức tăng dự chi cả năm là 7,5%. Chi đầu tư phát triển mới đạt 19,2% kế hoạch sau 4 tháng nhưng đã tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Việc thúc đẩy chi đầu tư phát triển phải đi đôi với tăng hiệu quả đầu tư công nên dù thấp so với kế hoạch cũng không thể vội vàng. Các khoản chi thường xuyên 4 tháng tăng 9,8%, cao hơn dự toán cả năm là 7% nên cần phải có biện pháp kiểm soát chặt chẽ.

Như vậy, có thể thấy nhờ thu tăng mạnh nên cán cân ngân sách đạt trạng thái thặng dư. Với các khoản thu thuế có tính ổn định tương đối cao và chi được kiểm soát, đặc biệt chi thường xuyên, bội chi ngân sách sẽ không còn là rủi ro lớn cho ổn định vĩ mô.

Người thu nhập trung bình và thấp chịu tác động nhiều nhất

Vậy còn khi nhìn ở góc độ sức mua của người dân, việc tăng thuế sẽ có tác động như thế nào?

Tôi cho rằng, sức mua người dân yếu, không thể gánh thêm gánh nặng thuế.

Chỉ số bán lẻ trong 3 năm gần đây đang có chiều hướng giảm. 4 tháng đầu năm 2015 và 2016, tăng trưởng bán lẻ lần lượt là 8% và 7,5%. Sang 4 tháng 2017, chỉ số bán lẻ giảm xuống chỉ còn 6,7%.

Khi thuế BVMT đối với xăng dầu tăng từ 1.000 tăng lên 3.000 đồng/lít, thu thuế BVMT đã tăng thêm 31 nghìn tỷ đồng, tương đương 0,9% tổng bán lẻ của năm 2016. 0,9% là con số lớn nếu so với tăng trưởng bán lẻ của 4 tháng đầu năm 2017 là 6,7%. Nếu tiếp tục tăng từ 3.000 lên 8.000 đồng/lít, người tiêu dùng sẽ phải đóng thêm 75 nghìn tỷ đồng, bằng 2,1% tổng bán lẻ.

Tăng trưởng bán lẻ giảm cho thấy sức tiêu dùng giảm, thu nhập và chất lượng cuộc sống người dân chậm cải thiện. Nếu tăng thuế, chất lượng cuộc sống của người dân nói chung còn giảm hơn nữa.

Người tiêu dùng đã phải đóng 2 khoản thuế lớn là thuế VAT và thuế thu nhập cá nhân, cả 2 khoản thuế này đều đã tăng mạnh. Thay vì giảm thuế để giúp cải thiện cuộc sống, đặt thêm gánh nặng thuế BVMT là điều không hợp lý.

Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam hiện đang có mức tăng trưởng chậm vì sức cầu yếu, muốn thúc đẩy tăng trưởng thì cần phải kích cầu. Vậy theo ông, các chính sách về thuế nói chung và riêng thuế xăng dầu phải như thế để giải bài toán kích cầu này?

Giải pháp đặt ra ở đây là phải làm sao kích cầu, bao gồm giảm thuế, không phải tăng thuế.

Từ năm 2014, thuế suất thuế TNDN đã được giảm dần từ 25% xuống 20%, thuế trước bạ đối với ô tô cũng được giảm từ 20% xuống 10%.

Nếu giảm thuế TNDN có thể giúp doanh nghiệp có nguồn vốn tái đầu tư, tạo ra tăng trưởng trong tương lai thì giảm thuế trước bạ ô tô không có lý giải thuyết phục. Tỷ lệ nội địa hóa ô tô thấp nên giảm thuế trước bạ thực chất lại là kích cầu cho nước ngoài và làm tăng nhập siêu. Ô tô là mặt hàng đắt tiền vì vậy giảm thuế trước bạ cũng là giảm thuế cho nhóm nhỏ có thu nhập cao.

Tăng thuế xăng dầu, ngược lại, đang đánh vào đại đa số người dân, trong đó nhóm thu nhập trung bình và thấp chịu tác động nhiều nhất.

Với 304 nghìn xe được các thành viên VAMA bán trong năm 2016 và giả định 10% thuế trước bạ mỗi xe là 50 triệu đồng thì ngân sách đã bị hụt đi 15.2 nghìn tỷ đồng.

15,2 nghìn tỷ đồng đó có thể đổi tương đương với 1.000 đồng thuế BVMT cho mỗi lít xăng.

1.000 đồng là nhỏ nên nếu được giảm, người tiêu dùng sẽ có xu hướng chi tiêu cho những khoản thiết yếu. Hàng hóa thiết yếu lại thường có tỷ lệ nội địa hóa cao như lương thực, thực phẩm. Như vậy không chỉ chất lượng cuộc sống của đa phần người dân được cải thiện mà sức cầu với hàng hóa nội địa nhất là nông sản sẽ gia tăng.

Tăng thuế BVMT do đó không chỉ đi ngược với các giải pháp kích cầu mà còn tạo ra sự bất bình đẳng cho nhóm thu nhập trung bình thấp và làm giảm sức tiêu thụ hàng nội địa.

Tóm lại, tăng thuế BVMT đối với xăng dầu cần phải được cân nhắc lại bởi xét ở góc độ ngân sách nó không thực sự cần thiết trong khi tăng thuế là đi ngược với xu hướng kích cầu và làm giảm chất lượng sống của người dân.

Phương Dung ghi