Không có biện pháp bảo vệ ngành mía đường, hàng triệu lao động, hộ dân có nguy cơ tái nghèo
(Dân trí) - Buôn lậu và gian lận thương mại đang bóp nghẹt, giết chết sản xuất trong nước đồng thời xóa bỏ cơ hội tích luỹ, trưởng thành của ngành mía đường Việt Nam trong thời gian dài.
Việc hội nhập trong thời điểm hoàn cảnh bất lợi chẳng khác nào đẩy người nông dân vào “tử địa” và “xoá sổ” ngành mía đường. Đứng trước lợi ích hợp pháp của ngành mía đường, đặc biệt là kế sinh nhai của người dân trồng mía bị xâm phạm nghiêm trọng, nguy cơ tái nghèo là có thể dự báo trước, ai sẽ bảo vệ lợi ích của nông dân và các nhà máy đường?
Tại sao người dân không thể bỏ trồng mía?
Hàng chục năm nay, đối với ngành sản xuất mía đường, cây mía là quan trọng nhất bởi vùng nguyên liệu mía quyết định quy mô, công suất đầu tư và sự sống còn của các nhà máy đường. Theo quy luật đó, các nhà máy đường theo chân cây mía “xoá đói, giảm nghèo” đến những vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, những nơi điều kiện đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu khắc nghiệt… để ngày một hoàn thiện và chuyên nghiệp hóa sản xuất mía đường, mang lại công ăn việc làm cho hàng triệu hộ dân.
Trong suốt 25 năm qua, cây mía đã khẳng định vị trí cây trồng và trụ vững tại các vùng sản xuất, cùng với các nhà máy hình thành chuỗi hợp tác kinh tế trong việc phát triển các vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, ít lợi thế cạnh tranh, từng bước góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động, xóa đói giảm nghèo bền vững và hình thành các vùng nông thôn trù phú một cách ổn định, nhất là vùng biên giới phên dậu của tổ quốc, với đặc trưng điều kiện thổ nhưỡng kém như miền Bắc và miền Trung - đất bạc màu, đồi dốc, sỏi đá không có sông ngòi nước tưới, chỉ trông cậy vào nguồn nước trời và đồng bằng sông Cửu Long – nhiễm phèn, ngập mặn.. và phân tán, nhỏ lẻ với quy mô khoảng 0,7 ha/hộ trồng mía.
Đó là lý do vì sao chủ trương của chính phủ đã lựa chọn, đầu tư hơn 40 nhà máy đường quy mô nhỏ để phù hợp với vùng nguyên liệu mía có quy mô nông hộ, nhỏ lẻ phân tán và điều kiện khắc nghiệt tại Việt Nam để góp phần giải quyết thu nhập, công ăn việc làm, đời sống cho bà con, nông dân, đồng bào vùng khó khăn trải dài khắp cả nước.
“Cơ giới hóa, hiện đại hóa” đến đâu?
Theo nghiên cứu, quy mô sản xuất nông nghiệp của Mỹ là 1.000-3.000 ha/hộ, Úc là 500-2.500 ha/hộ, Brazil thì có những cánh đồng mía lớn 3.000-10.000 ha. Việt Nam chỉ có một vài điểm sáng như một số nông trường được quy mô trên dưới 1.000 ha nhưng trong vài điểm sáng đó thì chỉ có một, hai nông trường sản xuất mía tập trung và cơ giới hoá, còn lại chỉ có lợi thế quy mô về đất, đa số vẫn canh tác theo quy mô nông hộ do các nông trường viên thực hiện.
Thực tế, với địa hình đồi dốc, sỏi đá ở vùng núi trung du Bắc và trung bộ cũng như những vùng đồng bằng nhiễm mặn, nhiễm phèn… trồng mía thì cơ giới hoá và hiện đại hoá toàn diện là “nhiệm vụ bất khả thi”.
Có thể khẳng định với xuất phát điểm khó khăn như thế trong hoàn cảnh bất khả thi về cơ giới hoá công nghiệp hoá toàn diện thì việc năng suất mía người nông dân Việt Nam bình quân cả nước 65 tấn/ha so với năng suất 68-70 tấn/ha của Thái Lan, nơi mà việc canh tác được thuận lợi hơn nhiều và nông dân lại được chính phủ bảo hộ, trợ cấp, trợ giá, thì quy mô sản xuất nông hộ của Việt Nam đối với ngành mía đường thật đáng ghi nhận và khen ngợi.
Bởi vậy bài toán “cơ giới hóa, hiện đại hóa” nên chăng chúng ta cần nhìn nhận một cách thực tế hơn?
Ai sẽ bảo vệ lợi ích của người trồng mía?
“Đừng đổ lỗi cho đường lậu”, điều đó hoàn toàn đúng. Buôn lậu chính là quốc nạn của quốc gia. Trước hết nó giết chết ngành sản xuất trong nước và khiến ngân sách nhà nước thất thu. Buôn lậu, gian lận thương mại đường nhập lậu cùng với hệ thống quản lý không hiệu quả và quy định pháp lý bất cập đã khiến cho các hoạt động vi phạm pháp luật không bị kiềm chế, việc gian lận thương mại mặc sức hoành hành nhiều năm nay và đến nay đã hầu như không thể khống chế được.
Việc hội nhập không thể thực hiện một cách “ngây thơ” thiếu quá trình đánh giá đầy đủ và chuẩn bị kỹ lưỡng như các quốc gia khác đã thực hiện. Các cơ quan nhà nước cần tìm hiểu thông tin về một ngành mang tính “bảo hộ thương mại” hoặc “gian lận thương mại” cao như ngành đường để tránh thiệt hại cho đất nước khi đàm phán các thỏa thuận quốc tế nhằm đảm bảo cạnh tranh bình đẳng và có lợi cho nước nhà. Từ đó đánh giá, vận dụng và đưa ra thời điểm, lộ trình và mức thuế quan phù hợp.