Ba ưu tiên của tân Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia

Sau khi được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, đầu tuần này, ông Vũ Viết Ngoạn đã chính thức tiếp nhận vị trí Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia. Trao đổi với báo giới, ông Ngoạn nhấn mạnh sẽ có 3 ưu tiên khi ông tiếp nhận nhiệm vụ mới.

Ba ưu tiên của tân Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia  - 1
Ông Vũ Viết Ngoạn đã chính thức tiếp nhận vị trí Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia.
 
Sau khi được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, đầu tuần này, ông đã chính thức tiếp nhận vị trí Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia. Đâu là yếu tố có thể giúp ông thành công ở nhiệm vụ mới?

 

Tôi đã có 30 năm làm ở ngân hàng thương mại, trong đó có gần 8 năm ở cương vị Tổng giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Kiến thức và kinh nghiệm tích lũy được về lĩnh vực ngân hàng là tài sản quý báu với tôi để thực hiện nhiệm vụ hiện tại.

 

Quá trình làm việc tại Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cũng giúp tôi tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm. Và tôi cho rằng giữa lý luận và thực tiễn là một khoảng cách lớn, cần phải có kiến thức về lý luận và kiến thức về thực tiễn. Công việc hôm nay của chúng tôi đòi hỏi sự kết hợp của hai yếu tố đó.

 

Về yếu tố thành công, trước đây khi làm Tổng giám đốc Vietcombank, tôi đã có lần trả lời phóng viên rằng yếu tố quyết định giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ chính là sự sáng tạo. Còn ở cương vị mới này, mặc dù mới có chỉ mấy ngày nhưng tôi tiên lượng hai yếu tố quan trọng đối với tôi, đó là kiến thức và sự hợp tác.

 

Khi tiếp nhận nhiệm vụ mới, ông định hình thế nào về công việc và định hướng hoạt động của Ủy ban trong thời gian tới?

 

Tôi mới nhận công tác ít ngày nên cần thêm thời gian để tìm hiểu, nghiên cứu kỹ hơn mới có thể trả lời đầy đủ được. Tuy nhiên, có một số nội dung ưu tiên mà tôi muốn triển khai trong thời gian tới.

 

Thứ nhất, tôi dự định đề xuất thiết lập một cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có chức năng giám sát thị trường tài chính.

 

Thứ hai là thiết lập mạng lưới cộng tác viên cũng như xây dựng cơ chế phối hợp với các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học để tham mưu chính sách kinh tế và tài chính cho Thủ tướng.

 

Thứ ba là tăng cường công tác nghiên cứu khoa học hướng vào việc xây dựng một số mô hình dự báo kinh tế.

 

Ông có thể nói rõ hơn những mô hình dự báo kinh tế đó không?

 

Dự báo kinh tế là công việc hết sức khó khăn nhưng rất cần thiết. Hiện một số cơ quan chức năng, tổ chức cũng đã xây dựng và vận hành một số mô hình trên thực tế. Còn với chức năng nhiệm vụ dược giao, chúng tôi quan tâm đến một số mô hình dự báo cấp thiết đối với Việt Nam.

 

Trước hết, chúng tôi dự kiến sẽ xây dựng mô hình dự báo “độ chênh sản lượng” (output gap), tức chênh lệch giữa sản lượng thực tế và sản lượng tiềm năng. Đây là một công cụ quan trọng để dự báo lạm phát. Hầu hết chính phủ và ngân hàng trung ương các nước đều đã và đang sử dụng công cụ này.

 

Thứ hai là xây dựng một mô hình lượng hóa mối tương quan giữa tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán, tốc độ tăng tín dụng và lạm phát trong điều kiện thực tế ở Việt Nam.

 

Thứ ba là xây dựng một hệ thống thông tin cảnh báo rủi ro hệ thống tài chính đối với ổn định kinh tế vĩ mô và đo lường khả năng chịu đựng của hệ thống tài chính đối với biến động từ bên ngoài.

 

Ông có thể nói chi tiết hơn cơ sở của những mô hình đó và lộ trình triển khai của Ủy ban?

 

Chúng tôi sẽ nghiên cứu xây dựng và cố gắng đưa vào ứng dụng các mô hình đó vào cuối năm 2012. Trong quá trình ứng dụng sẽ tiếp tục hoàn thiện để phù hợp với thực tế và phát huy hiệu quả.

 

Tôi đã làm chủ nhiệm 6 đề tài khoa học cấp bộ, trong đó có một số đề tài về quản trị ngân hàng. Luận án tiến sỹ của tôi với đề tài “Đo lường và quản lý rủi ro lãi suất: mô hình áp dụng cho các ngân hàng Việt Nam” cũng hàm chứa nội dung khoa học về quản trị ngân hàng.

 

Trong luận án, tôi đã xây dựng một mô hình quản trị lãi suất đặt tên là mô hình hỗn hợp (hybrid model) trên cơ sở kết hợp hai phương pháp quản trị rủi ro lãi suất: phương pháp thứ nhất là quản trị độ chênh lệch vốn theo cảm biến lãi suất; phương pháp thứ hai là quản trị chênh lệch kì hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn. Mô hình này mặc dù được thiết kế cách đây hơn chục năm, nhưng theo tôi vẫn còn nguyên giá trị và có tính ứng dụng cao vào điều kiện của Việt Nam. Phương pháp đo lường rủi ro lãi suất nêu trong luận án của tôi cũng có thể được sử dụng như một thông số đánh giá an toàn tài chính của tổ chức tín dụng.

 

Theo Minh Đức

VnEconomy