Tự chủ đại học: Các trường quanh năm phục vụ việc "khám sức khỏe"

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức

(Dân trí) - Cần sử dụng phương pháp đối sánh trong đánh giá chất lượng giáo dục đại học. Không thể xem giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục như phương pháp duy nhất đánh giá chất lượng giáo dục đại học.

Đó là khẳng định của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, trưởng Ban Đào tạo ĐH Quốc gia Hà Nội khi nói về tự chủ đại học. 

Sáng nay 4/8, Bộ GD&ĐT tổ chức Hội nghị Tự chủ đại học năm 2022. Hội nghị nhằm đánh giá kết quả đã đạt được trong triển khai tự chủ đại học, thẳng thắn nhìn nhận khó khăn, vướng mắc và xác định những nguyên nhân trọng yếu, từ đó định hướng lộ trình cùng những việc cần làm trong thời gian tới.

Để hiểu rõ hơn về tự chủ đại học, Dân trí xin giới thiệu bài viết của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, trưởng Ban Đào tạo ĐH Quốc gia Hà Nội về vấn đề này. 

Tự chủ đại học: Các trường quanh năm phục vụ việc khám sức khỏe - 1

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, trưởng Ban Đào tạo ĐH Quốc gia Hà Nội.

Tự chủ đại học là xu thế tất yếu trong thời đại ngày nay. Tuy nhiên, để hiểu và vận dụng tự chủ đại học như thế nào để áp dụng khả thi cho các trường đại học ở Việt Nam hiện nay là vấn đề rất lớn và hệ trọng, không chỉ liên quan trực tiếp đến các trường đại học, đến hệ thống giáo dục đại học mà còn trực tiếp liên quan đến đội ngũ trí thức tinh hoa, đến giáo dục đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao và hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo - những lĩnh vực then chốt nhất và là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển.

Các trường đại học được cởi trói?

Không thể phủ nhận những thành tựu đổi mới của Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm 2018. Xuyên suốt Luật này, theo tôi có 3 điểm mới quan trọng nhất là: Tự chủ đại học; Kiểm định chất lượng giáo dục đại học và Khuyến khích nâng cấp các trường đại học thành đại học.

Về tự chủ đại học: Cảm giác đầu tiên là các trường đại học được cởi trói (nếu đáp ứng đủ các điều kiện tự chủ), được tự quyết nhiều hơn. Thành quả của chính sách này là các trường đại học phát huy và thu hút được tối đa các nguồn lực, có sự phát triển và cạnh tranh lành mạnh, công bằng hơn giữa các trường công và tư.

Trước đây, các trường công lập dàn hàng ngang mà tiến, thì nay, tự chủ đại học đã giúp quá trình "chọn lọc tự nhiên" giữa các trường được diễn ra công bằng hơn. Trước đây chỉ có các trường lớn, công lập được nhắc đến và xếp hạng, nay các trường dân lập cũng đã có tên tuổi,....Đây là một điểm tích cực rất đáng được ghi nhận.

Tuy nhiên, ngay cả văn bản Luật và việc triển khai thực hiện Luật cũng đã bộc lộ nhiều nghịch lý, hạn chế, bất cập.

Về hội đồng trường: Việc thành lập hội đồng trường trong các đại học công lập, bên cạnh BGH và Đảng ủy, với các chức năng được quy định trong Luật, tưởng là rất lớn, nhưng lại rất hình thức. Thậm chí một số trường đã bắt đầu có sự mẫu thuẫn giữa Chủ tịch Hội đồng và Hiệu trưởng, dẫn đến mất đoàn kết nội bộ.

Với các đại học, Điều 15 khoản 2 quy định các trường thành viên thực hiện tự chủ ở mức độ và trong mối quan hệ được quy định trong Quy chế tổ chức hoạt động của đại học. Như vậy, để tạo nên sức mạnh của đại học, chỉ cần hội đồng đại học là đủ.

Nhưng Luật lại quy định ở điều khoản khác, là tất cả các trường đại học thành viên đều phải thành lập hội đồng trường, thế là xảy ra 2 trường hợp - hoặc là hội đồng các trường thành viên chỉ là hình thức, hoặc hội đồng trường thành viên sẽ thực hiện đầy đủ quyền được Luật cho phép - và có thể có những quyết sách khác với chủ trương của đại học.

Như vậy, với tư duy logic và sự biện chứng, thì Luật này sẽ kéo theo hiện tượng tất cả các mũi tên đều quy về một hướng để tạo nên một hợp lực lớn ngày càng ít xảy ra. Thậm chí trường thành viên tự chủ có quyền quyết lớn hơn, mạnh hơn cả quyền của đại học. 

Vì vậy Luật này thực chất lại đang làm suy yếu mô hình đại học 2 cấp - hệ thống đại học, nhất là 2 ĐH Quốc gia.

Vì vậy, cần xem lại, sửa lại cho rõ ràng và cụ thể hơn, thực tế hơn quy định về việc thành lập hội đồng trường của các đại học công lập trong Luật, cũng như quy định về tự chủ của các trường đại học trong hệ thống đại học.

Với 2 ĐH Quốc gia (ĐHQG): Vì theo Luật, trước hết cũng là đại học, nên không nằm ngoài xu hướng trên trong quá trình tự chủ theo quy định của Luật như hiện nay. Hơn nữa, Điều 8 của Luật quy định Đại học quốc gia có quyền tự chủ cao trong các hoạt động về đào tạo, nghiên cứu khoa học, tài chính, quan hệ quốc tế và tổ chức bộ máy, và hoạt động theo chức năng và quyền hạn do Chính phủ quy định.

Nhưng trên thực tế, có 2 quyền lớn nhất là Tổ chức cán bộ và Đào tạo thì không khác gì các trường đại học khác. Nhẽ ra với truyền thống, đội ngũ CSVC và con người hùng hậu và theo Luật, về mặt học thuật, ĐHQG phải được ban hành Quy chế riêng, có sự khác biệt với Quy chế của Bộ. Nhưng Bộ lại ban hành Quy chế áp cho tất cả các trường, trong đó các trường và ĐHQG phải thực hiện chỉ có cao hơn, không có sự khác biệt.

Như vậy thì trong trường hợp này, quyền của Bộ vô hình chung đã vô hiệu hóa quyền tự chủ cao về học thuật của ĐHQG.

Nói nôm na là "Thủ kho to hơn Thủ trưởng"- quyền của Bộ trưởng đã cao hơn quyền của Luật và Chính phủ cho phép 2 ĐHQG có quyền tự chủ cao.

Tưởng như nắn nót, nhưng vô hình chung đã vô hiệu hóa sự sáng tạo và tiên phong, dẫn dắt của ĐHQG trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam - điều mà Bộ Chính trị khi thành lập 2 ĐHQG đã kỳ vọng.

Do đó Điều 8 về ĐHQG cần được vi phân ra cụ thể và chi tiết hơn nữa tự chủ của 2 ĐHQG trong Luật, để tránh tình trạng chỉ oai trên giấy tờ mà không triển khai được hiểu quả trên thực tế. Luật cho phép nhưng không cụ thể và vì vậy, vẫn bị trói bởi các văn bản dưới Luật.

Quanh năm suốt tháng phục vụ việc "khám sức khỏe"

Về Kiểm định chất lượng giáo dục đại học: Đây là chủ trương đúng đắn. Nhưng không đúng ở chỗ trong quá trình triển khai quy định trong Nghị định 99 hướng dẫn thực hiện Luật và Nghị định 81 về học phí, xem việc có giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục (được xem như "Giấy khám chứng nhận sức khỏe") là phương pháp duy nhất để đánh giá chất lượng giáo dục đại học, lấy đó làm tiêu chí để xác định được tự chủ, từ đó để được nâng học phí cao theo định mức kinh tế kỹ thuật là không hoàn toàn chính xác và không đầy đủ, và đang bị lạm dụng.

Do hiểu và quy định như vậy, nên các trường đua nhau kiểm định chương trình đào tạo, thành phong trào và có tính đối phó từ các trường. Các trung tâm kiểm định làm việc ngày đêm hết công suất cũng không đủ phục vụ.

Các trường cũng buông, thôi thì tổ chức kiểm định nào cũng được, miễn là mau mau có giấy chứng nhận kiểm định chất lượng (KĐCL) để còn được thu học phí cao.

Và có một bất cập là: một trường nhỏ, mới, có ít chương trình đào tạo thì dễ đạt kiểm định xong 100% và xem như đủ sức khỏe, có thể được tự chủ. Trong khi các đại học lớn, như ĐHQGHN có đến 500 chương trình đào tạo các bậc ĐH, ThS, TS (riêng ĐH đã là 143 chương trình), mà mỗi năm tối đa cũng chỉ kiểm định được 15-20 chương trình, và sau đó vòng lặp cứ 5 năm phải kiểm định lại.

Như vậy quanh năm suốt tháng sẽ phục vụ việc "khám sức khỏe", và khó mà khả thi khi trong 5 năm kiểm định hết tất cả từng ấy các chương trình.

Và sẽ xảy ra xu hướng sẽ ít mở ngành mới, nhóm lại các chuyên ngành, các ngành đã có, để giảm đi số lượng chương trình, từ đó mong sao kiểm định cho hết lượt các chương trình đào tạo.

Trong khi các trường nhỏ, mới, ít chương trình, được kiểm định hết mặc nhiên xem như đủ sức khỏe, đủ điều kiện tự chủ thì các trường lớn như 2 ĐHQG và các đại học được xếp hạng hàng đầu VN trong các bảng xếp hạng quốc tế , các trường đại học nghiên cứu (theo định nghĩa trong NĐ 99 ĐH nghiên cứu phải có 20% GS, PGS và tối thiểu 100 bài ISI/năm) thì lại không có chút lợi thế nào. Đây là chính sách bất cập và không khả thi trong điều kiện VN hiện nay.

Cần sử dụng phương pháp đối sánh trong đánh giá chất lượng giáo dục đại học. Nên có sự xem xét và điều chỉnh lại cho hợp lý. Không thể xem giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục như phương pháp duy nhất đánh giá chất lượng giáo dục đại học. Trong khi các chương trình đạt yêu cầu khi kiểm định chất lượng hiện nay có tỷ lệ cao như tỷ lệ đạt trong kỳ thi tốt nghiệp THPT. 

Đòn "chí mạng" vào mô hình đại học 2 cấp

Nguy hiểm hơn, Tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay được nhiều người hiểu là tự quyết, tự hạch toán thu-chi, nên càng nhiều trường tự chủ thì nhà nước càng giảm được đáng kể nguồn ngân sách chi thường xuyên cho hoạt động của các trường đại học. Đương nhiên học phí các chương trình đào tạo cũng tăng lên đáng kể.

Thu nhập của cán bộ khoa học, cán bộ giảng dạy trong nhiều trường tự chủ nhờ đó mà đã được cải thiện và tăng lên mạnh. Thật nghịch lý là lương tiến sĩ ở trường tự chủ, có thể cao gấp 2-3 lần lương giáo sư hàng đầu ở một đại học công lập.

Về khuyến khích nâng cấp các trường đại học thành đại học: Xin miễn phân tích, chỉ có 1 đề nghị là nên bỏ đi câu này trong Luật giáo dục đại học sửa đổi. Vì theo Luật hiện tại thì là trường đại học tự chủ sướng hơn, nhiều quyền hơn là lên đại học.

Tự chủ của Luật 2018 đã giáng 1 đòn chí mạng vào mô hình đại học 2 cấp - hệ thống các đại học.

Nhiều điểm chồng chéo và chưa phù hợp

Như điều 8 của Luật được hiểu là có quyền tự chủ cao, Giám đốc 2 ĐHQG thực hiện quyền hạn của Chính phủ cho phép, được mở tất cả các ngành, kể cả các ngành khối sức khỏe, sư phạm, thì nay Luật mới điều 3 lại quy định những ngành này thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ GD &ĐT - thế là "tay này thì mở, tay kia thì trói". 

Hoặc như quy định phải mở chương trình đại học 2 khóa ra trường, kiểm định xong mới được mở chương trình thạc sỹ. Thạc sỹ ra trường lại kiểm định xong mới mở chương trình TS là những người làm luật và quy định không có thực tế. Ví dụ ĐH Việt Nhật khi ra đời mở trước 6 chương trình thạc sỹ, 5 năm sau mới mở chương trình đại học. Nhiều ngành khác cũng đào tạo thạc sỹ trước khi đào tạo cử nhân, nhất là trong các trường đại học nghiên cứu.

Lại nhất định phải nói một chút về tuyển sinh: Luật mới quy định việc tuyển sinh là các trường tự chủ - việc của các trường đại học. Với cách diễn đạt này trong Luật, Bộ giũ bỏ được trách nhiệm và áp lực lên Bộ về kỳ thi tuyển sinh đại học.

Nhưng trên thực tế lại không phải như vậy. Để giảm tốn kém các trường đại học vẫn phải sử dụng kết quả thi THPT như một phương thức để tuyển sinh (và Bộ vẫn cầm trịch trong kỳ thi này). Dẫn đến chất lượng tuyển sinh đầu vào đại học có vấn đề như những năm vừa qua và chưa hình dung hết được hệ lụy kéo theo những năm sau về chất lượng đào tạo đại học.

Và để nâng cao chất lượng vì sự phát triển và tồn tại của chính mình (trường ĐH cần phải có thầy giỏi và cả trò giỏi) nên năm nay nhiều trường đã có kỳ thi riêng, lại dẫn đến tình trạng trăm hoa đua nở.

Một thí sinh muốn apply vào nhiều trường, lại phải thi nhiều lần. Hơn nữa lại không có mặt bằng thang đánh giá chung khi tuyển sinh đầu vào, nên trong quá trình đào tạo dễ nảy sinh tiêu cực khi chuyển trường, chuyển ngành ở những ngành hot.

Chỉ với mấy điểm trên, thấy rằng Luật Giáo dục đại học đã sửa, đã có tiến bộ, nhưng phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi và hoàn thiện. Và đương nhiên, Nghị định 99 và NĐ 81, cũng nên có sự điều chỉnh theo.

Cần lắm tư duy đổi mới và hội nhập, hiểu giáo dục đại học, hiểu thực tế, phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam. Giáo dục VN, trong đó có giáo dục đại học xem ra vẫn còn nhiều việc phải làm - cần học thật, thi thật, nhân tài thật - Cần thực chất về chất lượng và trình độ để chấn hưng đất nước, sánh vai với các nước năm châu.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, ĐHQGHN

Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, tính đến ngày 30/6/2022, trong cả hệ thống có 288 cơ sở giáo dục (cơ sở GDĐH và trường cao đẳng sư phạm) hoàn thành báo cáo tự đánh giá (trong đó, 266 cơ sở giáo dục hoàn thành chu kỳ 1 và 22 cơ sở giáo dục hoàn thành chu kỳ 2); 183 cơ sở giáo dục được các tổ chức KĐCLGD trong nước đánh giá ngoài và công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục (172 cơ sở GDĐH và 11 trường CĐSP);

778 chương trình đào tạo được đánh giá và công nhận chất lượng, trong đó 470 chương trình được công nhận theo tiêu chuẩn trong nước và 308 chương trình được công nhận theo tiêu chuẩn nước ngoài.

Cả hệ thống có 07 trường đại học được đánh giá ngoài và được công nhận theo tiêu chuẩn đánh giá cơ sở giáo dục của Hội đồng cấp cao về đánh giá nghiên cứu và GDĐH Pháp (HCERES) và ASEAN University Network - Quality Assurance (AUN-QA) 38; đồng thời, có 232 chương trình đào tạo được đánh giá và công nhận bởi tổ chức kiểm định nước ngoài.

Thông tin doanh nghiệp - sản phẩm