Tiêu chí nào để đánh giá giáo viên đáp ứng chương trình GDPT mới?
(Dân trí) - Đội ngũ nhà giáo có vai trò quyết định đến sự thành bại của Chương trình GDPT mới. Chương trình mới dù tốt nhưng nếu đội ngũ giáo viên không được bồi dưỡng, đào tạo bài bản thì sẽ không đạt được hiệu quả. Vì vậy, bồi dưỡng giáo viên đáp ứng Chương trình GDPT mới được nhiều phụ huynh và dư luận xã hội đặc biệt quan tâm.
* Trong gần 3 tiếng đồng hồ, các khách mời GS Đinh Quang Báo (Phó Giám đốc Kỹ thuật Dự án Dự án Hỗ trợ đổi mới giáo dục phổ thông - RGEP), PGS.TS Nguyễn Văn Hiền (Phó giám đốc Chương trình Phát triển các trường sư phạm để nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục phổ thông - ETEP) và PGS. TS Lê Huy Hoàng (Chủ biên chương trình công nghệ - Chương trình GDPT mới, Trưởng khoa SP kỹ thuật, ĐH Sư phạm Hà Nội) đã giải đáp nhiều vấn đề liên quan bồi dưỡng giáo viên trong chương trình phổ thông mới.
Tuy nhiên, do thời gian có hạn, các vị khách mời chỉ có thể trả lời vào những vấn đề chính và không thể trả lời hết hàng trăm câu hỏi, vấn đề mà quý độc giả đã gửi tới chương trình. Rất mong quý độc giả thông cảm.
Với những nội dung còn thắc mắc về "Bồi dưỡng giáo viên đáp ứng chương trình phổ thông mới", xin mời quí độc giả gửi câu hỏi hoặc theo dõi trên fanpage của dự án RGEP TẠI ĐÂY
Và dưới đây là toàn bộ nội dung buổi giao lưu trực tuyến:
PGS.TS Hoàng có thể cho biết, hoạt động bồi dưỡng giáo viên cán bộ quản lý giáo dục mà Bộ GD&ĐT tiến hành có điểm khác biệt đột phá nào so với trước? Điểm mới trong chương trình, tài liệu bồi dưỡng giáo viên?
PGS.TS Lê Huy Hoàng, Chủ biên chương trình công nghệ - Chương trình GDPT mới:
Căn cứ vào kế hoạch tổng thể của BỘ GD&ĐT về bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình GDPT mới, sự chuẩn bị của Trường ĐHSP Hà Nội và một số trường sư phạm trong khuôn khổ Chương trình ETEP có thể thấy công tác bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục của Bộ GD&ĐT đang tiến hành có một số điểm nổi bật mới đây:
- Có sự đa dạng và phân chia rõ ràng các đối tượng được bồi dưỡng. Cụ thể có 4 đối tượng được bồi dưỡng là: Giảng viên sư phạm; Cán bộ quản lý giáo dục cấp sở, phòng; Hiệu trưởng các trường phổ thông và giáo viên phổ thông.
- Nội dung bồi dưỡng tập trung vào chương trình và tổ chức thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới (bao gồm chương trình tổng thể và chương trình các môn học, hoạt động giáo dục). Đây là điểm khác biệt lần đầu tiên được thực hiện tại Việt Nam.
- Học liệu bồi dưỡng được thiết kế đa dạng, hỗ trợ tối đa cho các hoạt động bồi dưỡng và tự bồi dưỡng, khai thức được thế mạnh của công nghệ thông tin.
Những học liệu đó bao gồm: Tài liệu đọc; Tài liệu tập huấn; Infographic; video…
Về phương pháp bồi dưỡng chú trọng vào thực hành, hoạt động và định hướng sản phẩm nhằm tích cực hoá các hoạt động tập huấn cũng như kiểm soát chất lượng tập huấn.
- Công nghệ thông tin được khai thác tối đa để tổ chức các khoá tập huấn theo hình thức kết hợp (blended learning). Theo hình thức này, quá trình tập huấn được thông qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1, tiếp cận với nguồn học liệu tập huấn (qua mạng). Giai đoạn 2, trao đổi thảo luận và thực hành tại các buổi tập huấn (trực tiếp). Giai đoạn 3, tiếp tục hỏi đáp và trao đổi thông tin trong quá trình vận dụng tại nhà trường (qua mạng).
Thưa PGS.TS Nguyễn Văn Hiền, xin ông cho biết kế hoạch tổng thể, mục tiêu và nội dung chủ chốt bồi dưỡng giáo viên phục vụ triển khai chương trình Giáo dục Phổ thông mới thời gian tới?
PGS.TS Nguyễn Văn Hiền, Phó giám đốc Chương trình ETEP:
Tháng 12/2018 Bộ GD&ĐT có kế hoạch số 791/KH- BGDĐT chi tiết các hoạt động đào tạo bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới.
Ngày 20/3/2019, Bộ GD&ĐT tiếp tục ban hành kế hoạch 212/KH- BGDĐT về tổ chức bồi dưỡng triển khai thực hiện giáo dục phổ thông mới.
Ngày 29/3/2019, Bộ ra kế hoạch 263/KH- BGDĐT về chi tiết các hoạt động bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới trong năm 2019.
Theo đó, các đối tượng bồi dưỡng được chia làm 4 nhóm: Lãnh đạo các sở, Phòng GD&ĐT. Nhóm thứ hai, là hiệu trưởng các trường phổ thông. Thứ 3 là giáo viên phổ thông và cuối cùng là giảng viên các Trường sư phạm.
Cả 4 nhóm này, đều được tìm hiểu và hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới.
Bên cạnh đó, mỗi nhóm đối tượng sẽ được bồi dưỡng một nội dung có tính chất phân hoá, phù hợp với vị trí việc làm.
Cụ thể: Với đối tượng lãnh đạo Sở, phòng GD&ĐT sẽ tìm hiểu thêm chuẩn bị các điều kiện thực hiện chương trình GDPTM.
Với các hiệu trưởng: Sẽ tìm hiểu cách thức quản lý hoạt động chuyên môn của nhà trường, phù hợp với điều kiện thực hiện chương trình GDPTM.
Các giáo viên phổ thông: Sẽ được hướng dẫn đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá, phát triển năng lực phẩm chất học sinh.
Với các giảng viên: Được tăng cường năng lực xây dựng chương trình và tổ chức bồi dưỡng giáo viên.
Thưa GS Đinh Quang Báo, xét về vai trò của Cán bộ quản lý giáo dục (QLGD) trong triển khai chương trình GDPT mới, cán bộ quản lý nhà trường phổ thông cần có những kỹ năng gì để đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông mới?
GS Đinh Quang Báo, Phó Giám đốc Kỹ thuật Dự án RGEP:
Để thực hiện chương trình GDPT mới, trong đó phân cấp quản lý thực hiện chương trình được xem là một trong những đổi mới cơ bản. Nó mới là ở chỗ nếu như trước đây chương trình nặng về quan liêu, kế hoạch hóa cứng nhắc, áp đặt từ trên xuống thì chương trình mới là một chương trình mở trong đó xác định mối quan hệ giữa chương trình quốc gia, chương trình địa phương và chương trình nhà trường; mỗi cấp chương trình thì có những nhiệm vụ nhất định đòi hỏi sự sáng tạo của cán bộ quản lý ứng với từng cấp. Vì vậy mà cán bộ quản lý nhà trường phổ thông cần những nhóm kỹ năng cơ bản sau đây:
Một là, phát triển chương trình giáo dục nhà trường, hay còn gọi là kế hoạch giáo dục nhà trường. Nội dung phát triển chương trình nhà trường bao gồm:
+Xây dựng chương trình giáo dục theo cấp học, năm học phù hợp với bối cảnh thực tế của nhà trường trên cơ sở phân tích chương trình quốc gia và chương trình địa phương.
+Nghiên cứu hạ tầng giáo dục, hiện trạng kinh tế xã hội của địa phương, nhu cầu phụ huynh, năng lực học sinh, chất lượng và cơ cấu đội ngũ giáo viên, các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục: cơ sở thực hành, thiết bị dạy học, học liệu,…
+Tổ chức đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch giáo dục hàng năm, chất lượng học tập của học sinh theo các yêu cầu cần đạt của chương trình.
+Tổ chức cộng đồng nghề nghiệp nhà trường phát triển đa dạng các phương pháp, hình thức dạy học bằng nhiều giải pháp trong đó nghiên cứu bài học là quan trọng và hiệu quả nhất.
+Tổ chức dạy học phân hóa dựa trên nghiên cứu nhu cầu sở trường, phong cách học, đặc điểm của từng nhóm học sinh. Đây là nội dung cần được nghiên cứu của tập thể sư phạm nhà trường.
+Mỗi trường có thể điều chỉnh thời gian quy định cho mỗi môn học, hoạt động giáo dục phù hợp với đặc điểm địa phương, học sinh, điều kiện nhà trường.
+Điều chỉnh cấu trúc nội dung các môn học, hoạt động giáo dục trên cơ sở thiết lập ma trận quan hệ giữa phát triển năng lực chung, năng lực chuyên biệt giữa các môn học và hoạt động giáo dục.
+Tổ chức nhóm tổ chuyên môn xây dựng các đề cương bài học, kế hoạch đánh giá kết quả học tập của học sinh, xây dựng ngân hàng câu hỏi bài tập cho các môn học, hoạt động giáo dục theo hướng phát triển năng lực học sinh.
+Phát triển nguồn học liệu, đặc biệt là các tài liệu hướng dẫn dạy học các chuyên đề, hoạt động giáo dục tự chọn theo nhu cầu, đặc điểm địa phương.
+Nhà trường phải thành lập hội đồng xây dựng chương trình nhà trường trong đó đặc biệt phải lấy tổ chuyên môn làm đơn vị phát triển nghề nghiệp.
+Tổ chức phát triển nghề nghiệp GV thông qua tổ chức đánh giá, tự đánh giá theo các tiêu chuẩn và tiêu chí nghề nghiệp.
Hai là, cán bộ quản lý nhà trường cần có kỹ năng tổ chức nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng. Đây là kinh nghiệm quốc tế mới được ứng dụng ở Việt Nam, bước đầu đã khẳng định được hiệu quả của hoạt động này trong phát triển chuyên môn nghiệp vụ và thường xuyên cải tiến chương trình. Hoạt động nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng được xem là một giải pháp quản lý đảm bảo chất lượng giáo dục của nhà trường.
Ba là, cán bộ quản lý nhà trường phải có kỹ năng tổ chức cộng đồng học tập, phát triển nghề nghiệp trong nhà trường, trong đó quan trọng và hiệu quả nhất là giải pháp tổ chức nghiên cứu bài học.
Xin GS Đinh Quang Báo cho biết những vấn đề gì nảy sinh cần giải quyết đối với giáo viên các cấp khi bước vào thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông mới? Phương hướng giải quyết các vấn đề như thế nào?
GS Đinh Quang Báo, Phó Giám đốc Kỹ thuật Dự án RGEP:
Theo tôi, những vấn đề nảy sinh đối với giáo viên các cấp khi bước vào thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông mới gồm:
Chương trình giáo dục phổ thông 2018 có những đổi mới sau đây, và mỗi đổi mới của chương trình đều nảy sinh những khó khăn đối với GV.
Thứ nhất là, chương trình được chuyển từ tiếp cận nội dung sang tiếp cận phẩm chất và năng lực học sinh thì khó khăn của GV là phải chuyển từ phương pháp dạy học kiểm tra đánh giá theo hướng cung cấp kiến thức cho học sinh sang việc tổ chức cho học sinh tự khám phá, vận dụng kiến thức để giải quyết những vấn đề có ý nghĩa trong nhận thức và vận dụng đời sống. Lực cản lớn nhất đối với GV trong chuyển đổi này là phần lớn GV đang có thói quen truyền đạt một chiều và thiếu năng lực thiết kế các hoạt động sáng tạo của học sinh. Ngoài ra, việc kiểm tra đánh giá hiện nay đang theo hướng tiếp cận nội dung đã ảnh hưởng đến quyết tâm đổi mới của GV.
Thứ hai là, chương trình từ chỗ chưa phân cấp chuyển sang chương trình mở, có sự phân cấp. Với quan điểm là giáo dục dựa vào nhà trường, đổi mới này đòi hỏi GV phải có năng lực phát triển chương trình nhà trường. Thế nhưng hầu hết GV phổ thông hiện nay không quan tâm đến nghiên cứu, phân tích chương trình trước khi thiết kế bài học mà họ chủ yếu dựa vào thông tin sách giáo khoa. Thậm chí có GV không bao giờ đọc chương trình, cứ mở SGK dạy. Điều đó cũng tương tự như họ lên sân khấu diễn kịch mà không đọc kịch bản. Đó là một khó khăn.
Thứ ba là, chương trình lần này là chương trình phát triển năng lực cho nên giáo dục tích hợp trở thành một phương thức chủ yếu bởi vì năng lực là khả năng kết nối kiến thức, kỹ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực để giải quyết các vấn đề nhận thức và thực tiễn. Trong khi đó, GV hiện nay còn lúng túng về tổ chức dạy học tích hợp, họ vẫn quen dạy học từng đơn vị nội dung rời rạc. Điều này làm cho dạy học trở nên quá tải bởi những nội dung rời rạc ít có ý nghĩa đối với học sinh. Tích hợp có nhiều mức độ khác nhau, trong đó mức cao nhất là trong chương trình mới có những môn học mới mà trong chương trình hiện nay không có, ví dụ môn Lịch sử và Địa lý, môn Khoa học tự nhiên ở bậc THCS. Đây là những môn học mà khi bước vào thực hiện chương trình mới, GV sẽ gặp rất nhiều khó khăn cần phải được bồi dưỡng thì họ mới có thể đáp ứng được.
Thứ tư là, chương trình mới chia làm hai giai đoạn: giai đoạn 1 là từ lớp 1 đến lớp 9 (giáo dục cơ bản) với mục tiêu giáo dục tri thức phổ thông, cơ bản cần cho mọi người; giai đoạn 2 là từ lớp 10 đến lớp 12 được gọi là giai đoạn giáo dục phân hóa, định hướng nghề nghiệp với mục tiêu học sinh sẽ được chuẩn bị những tri thức gắn với từng lĩnh vực ngành nghề. Đổi mới này nảy sinh khó khăn cho GV là ở giai đoạn 1, GV lại phải có nền tri thức rộng, nhưng đến giai đoạn 2 thì GV lại phải có tri thức sâu về từng chuyên ngành. Như vậy cả hai thái cực rộng và sâu ấy GV phải được bồi dưỡng mới đáp ứng chương trình mới.
Với những khó khăn trên thì giải pháp khắc phục là:
GV phải được bồi dưỡng về dạy học phát triển năng lực bao gồm: bồi dưỡng về phương pháp, hình thức dạy học, kiểm tra đánh giá.
Thứ hai là bồi dưỡng GV thực hiện vai trò tham gia vào phát triển chương trình giáo dục nhà trường. Bồi dưỡng GV về năng lực phát triển chương trình nói chung và chương trình nhà trường.
Các biện pháp quản lý phải tạo điều kiện cho GV có quyền chủ động, sáng tạo hơn, tránh có sự áp đặt.
Phải xây dựng cộng đồng phát triển nghề nghiệp trong mỗi nhà trường, trong đó lấy phương thức nghiên cứu bài học làm chủ yếu và làm cho cộng đồng đó trở thành đơn vị thực hiện bồi dưỡng và tự bồi dưỡng tại chỗ.
Chúng tôi băn khoăn, hình thức tổ chức dạy học CTPT mới có giống với Hình thức tổ chức dạy học của mô hình VNEN không? (phamkh...@gmail.com)
PGS.TS Nguyễn Văn Hiền, Phó giám đốc Chương trình ETEP:
Cho dù hình thức giáo dục nào, đều dựa trên các hoạt động học tập của học sinh. Mỗi hoạt động của học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên đều trải qua các bước: Xác định vấn đề/nhiệm vụ học tập; Tìm hiểu kiến thức mới để giải quyết nhiệm vụ học tập; Báo cáo kết quả tìm hiểu giải quyết vấn đề; Đánh giá và hoàn thiện kiến thức.
Theo tiếp cận như vậy, mô hình VNEN cũng chỉ là một trong những biện pháp tổ chức học tập cho học sinh. Quan trọng hơn, xuất phát từ yêu cầu cần đạt của chương trình môn học, giáo viên cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo các chiến lược dạy học hiệu quả nhằm rèn luyện và phát triển các năng lực và phẩm chất học sinh một cách thiết thực nhất.
Các thầy có thể cho biết, tầm quan trọng của đội ngũ cốt cán đảm nhiệm việc “dẫn đường” của các trường sư phạm? GV, CBQL cốt cán cần đáp ứng những tiêu chuẩn gì? Các giảng viên cốt cán được tập huấn ra sao để đảm nhiệm vai trò của mình?
PGS.TS Lê Huy Hoàng, Chủ biên chương trình công nghệ - Chương trình GDPT mới:
Đội ngũ này đóng vai trò rất quan trọng. Họ là những người trực tiếp tập huấn cán bộ quản lý, giáo viên cốt cán phổ thông; Hỗ trợ và đồng hành cùng giáo viên, cán bộ quản lý trước, trong và sau khi tập huấn.
Giảng viên sư phạm chủ chốt cần đạt các tiêu chuẩn như: Có bằng tiến sĩ trở lên (trừ một số ngành đặc thù), có kinh nghiệm giáo dục phổ thông có chuyên ngành phù hợp.
Ưu tiên các giảng viên có kinh nghiệm trong biên soạn chương trình SGK, tập huấn và bồi dưỡng giáo viên phổ thông.
Để nâng cao năng lực chuyên môn trong giai đoạn phát triển chương trình giáo dục phổ thông, nhiều giảng viên sư phạm đã sớm tiếp cận và tích cực tham gia góp ý Dự thảo chương trình, là thành viên hội đồng thẩm định hoặc tham dự các hội thảo giới thiệu chương trình.
Ngoài ra, trong giai đoạn vừa qua, các giảng viên sư phạm chủ chốt đã được tham dự tập huấn hai đợt về dạy học và đánh giá dựa trên năng lực; Cùng tham gia phát triển tài liệu tập huấn, bồi dưỡng giáo viên với các thành viên Ban soạn thảo chương trình giáo dục phổ thông; Được trao đổi tập huấn trực tiếp bởi các chủ biên chương trình.
Thưa PGS.TS Hiền, việc giáo viên cán bộ quản lý giáo dục tự bồi dưỡng qua mạng sẽ được đánh giá như thế nào?
PGS.TS Nguyễn Văn Hiền, Phó giám đốc Chương trình ETEP:
Hiện nay, hoạt động bồi dưỡng thường xuyên của giáo viên đang được áp dụng theo thông tư 26/2012/TT-BGDĐT, ngày 10/7/2012.
Theo đó, giáo viên sẽ được đánh giá kết quả bồi dưỡng thông qua các bài kiểm tra, bài tập nghiên cứu, bài thu hoạch cũng như kết quả vận dụng kiến thức được bồi dưỡng vào trong quá trình dạy học, giáo dục học sinh.
Trong giai đoạn sắp tới, công tác bồi dưỡng giáo viên sẽ được triển khai kết hợp giữa hình thức qua mạng và trực tiếp. Trong đó, giai đoạn tự bồi dưỡng qua mạng giúp giáo viên chủ động tiếp cận nguồn học liệu mới, khi đó các bài học trên mạng luôn có phần kiểm tra, tự đánh giá nhằm giúp giáo viên tự rèn luyện và phát triển kĩ năng kiến thức mới.
Hệ thống quản lý học tập sẽ có tính năng lưu vết ghi nhận kết quả học tập của giáo viên trong giai đoạn tự học qua mạng.
Quan trọng hơn, đến giai đoạn bồi dưỡng trực tiếp, các giáo viên sẽ được yêu cầu trao đổi thảo luận dựa trên những kiến thức đã tự học trong giai đoạn tự học qua mạng.
Vì vậy, có thể thấy khả năng chiếm lĩnh kiến thức kĩ năng mới của giáo viên phụ thuộc rất nhiều vào tính tự chủ trong quá trình tự học qua mạng.
Tôi có thắc mắc như sau: Tình trạng giáo viên thất nghiệp có thể xảy ra không? Tôi là một giáo viên lớn tuổi, không có đủ điều kiện để học bồi dưỡng nên rất lo ngại điều này.
PGS.TS Nguyễn Văn Hiền, Phó giám đốc Chương trình ETEP:
Việc chuẩn bị cho giáo viên làm quen với cách tiếp cận dạy học nhằm phát triển năng lực cho học sinh theo định hướng của Chương trình Giáo dục phổ thông mới đã được Bộ GD&ĐT thực hiện trong nhiều năm gần đây.
Cụ thể, đấy là các hướng dẫn ở một số văn bản dưới đây: Công văn số 791/HD-BGDĐT ngày 25/6/2013 về thí điểm phát triển chương trình giáo dục nhà trường phổ thông; Công văn 5555/BGDĐT-GDTrH ngày 8/10/2014 hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá; Công văn 4612/BGDĐT- GDTrH ngày 3/10/2017 về việc hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục phổ thông hiện hành theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh từ năm học 2017- 2018.
Như vậy có thể thấy, đội ngũ giáo viên về cơ bản đã có những bước chạy đà quan trọng trong việc làm quen với quy trình phát triển chương trình giáo dục của nhà trường cũng như đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực phẩm chất học sinh.
Công tác bồi dưỡng trong giai đoạn sắp tới có tính chất vừa củng cố vừa nâng cao năng lực triển khai dạy học phát triển năng lực học sinh. Quá trình này cũng được thực hiện cuốn chiếu từng bước và qua nhiều năm. Vì vậy, với tinh thần và năng lực tự học sẵn có của giáo viên, cũng như các biện pháp hỗ trợ và tổ chức bồi dưỡng đồng bộ đội ngũ giáo viên chắc chắn sẽ đáp ứng được các yêu cầu của chương trình mới.
Xin PGS cho biết, Bộ có giải pháp gì hữu hiệu để Môn Công nghệ được Lãnh đạo quan tâm, giáo viên CN không còn là giáo viên môn phụ?
PGS.TS Lê Huy Hoàng, Chủ biên chương trình công nghệ - Chương trình GDPT mới:
Môn công nghệ trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018 có nhiều đổi mới, giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực công nghệ, một trong những năng lực cốt lõi được nêu trong Chương trình tổng thể.
Tinh thần chủ đạo của Chương trình môn Công nghệ 2018 là nhẹ nhàng, hấp dẫn, thiết thực trên cơ sở thực hiện tốt vài trò giáo dục STEM, giáo dục hướng nghiệp trong môn học và những tiếp cận với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Đây là một trong những cơ sở để nâng cao cao vai trò, hình ảnh của môn Công nghệ ở Phổ thông.
Bộ GD&ĐT đang rất quan tâm với đội ngũ giáo viên Công nghệ thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông mới. Đặc biệt, trong bối cảnh nhiều giáo viên dạy công nghệ hiện nay chưa được đào tạo đúng chuyên môn.
Để triển khai Chương trình GDPT mới, giáo viên môn Công nghệ cần được bồi dưỡng đầy đủ, thậm chí phải được đào tạo lại (đối với giáo viên không dạy đúng chuyên môn).
Trong thời gian vừa qua, Bộ GD&ĐT đã chính thức bổ sung Ngành Sư Phạm Công nghệ để đào tạo giáo viên Công nghệ ở các trường sư phạm; Tổ chức hội thảo quốc gia về đào tạo giáo viên Công nghệ đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông (năm 2019). Được biết, năm 2019, Trường ĐHSP Hà Nội tuyển sinh Ngành Sư phạm Công nghệ, đào tạo giáo viên Công nghệ và Giáo dục STEM. Đây được coi là tín hiệu tích cực cho phát triển đội ngũ giáo viên Công nghệ ở các trường phổ thông.
Có một thực tế, trong giai đoạn vừa qua, nhận thức của các cấp quản lý giáo dục, của nhà trường và xã hội về môn Công nghệ đã có nhiều thay đổi khi Bộ GD&ĐT đã tổ chức nhiều hoạt động giáo dục bổ ích ở phổ thông đều liên quan mật thiết tới môn Công nghệ như hoạt động nghiên cứu dành cho học sinh trung học, dạy học gắn với sản xuất kinh doanh tại địa phương, dạy học tích hợp, giáo dục STEM, giáo dục hướng nghiệp…
Bên cạnh những tác động từ Bộ GD&ĐT, các giáo viên công nghệ phải tự hoàn thiện và nâng cao năng lực bản thân, đầu tư để có những bài học công nghệ thật sự bổ ích, hấp dẫn và luôn kiên định với điều đó. Làm được như vậy, đồng nghiệp, các nhà quản lý giáo dục, học sinh thấy được giá trị đích thực của môn học công nghệ trong cuộc sống và tương lai của các em (đặc biệt với các em học sinh có thiên hướng kĩ thuật, công nghệ).
Với vai trò là chủ biên môn Công nghệ, tôi rất mong muốn và kì vọng đội ngũ các thầy cô giáo môn Công nghệ hãy nỗ lực vì mục tiêu tốt đẹp đó.
Thưa GS Đinh Quang Báo, tiêu chí nào để đánh giá một giáo viên có thể đáp ứng được yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông mới?
GS Đinh Quang Báo, Phó Giám đốc Kỹ thuật Dự án RGEP:
Trước hết, muốn đánh giá một GV đã có năng lực đáp ứng dạy học theo chương trình mới hay không thì trước hết phải xác định các tiêu chí quan trọng nhất trong năng lực nghề nghiệp GV hướng vào thực hiện chương trình GDPT mới.
Thứ nhất là phải mô tả các chỉ báo cụ thể hơn cho các tiêu chí trong chuẩn nghề nghiệp GV đã được ban hành, trong đó đặc biệt là các tiêu chí sau cần phải được chú trọng:
+Năng lực dạy học tích hợp
+Năng lực dạy học phân hóa
+Năng lực vận dụng các phương pháp dạy học phát triển năng lực
+Năng lực đánh giá
Kèm theo các chỉ báo cho các tiêu chí này là mô tả hệ thống các minh chứng, ví dụ là thông qua bài soạn, qua việc thiết kế các hoạt động học tập của GV, các đề kiểm tra đánh giá của GV…
Sử dụng các tiêu chí được cụ thể hóa ở trên thiết lập một bảng tham chiếu để dựa vào đó quan sát, đánh giá GV.
Với cách làm trên, trước khi tổ chức bồi dưỡng GV thực hiện chương trình mới thì cần phải đánh giá năng lực hiện tại của GV dựa theo chuẩn trên để chúng ta có thông tin phản hồi về khả năng GV có đáp ứng được chương trình hay không.
Việc bồi dưỡng tại chỗ, giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở Giáo dục phổ thông được hỗ trợ những gì?
PGS.TS Nguyễn Văn Hiền, Phó giám đốc Chương trình ETEP:
Việc bồi dưỡng giáo viên hiện nay được triển khai trên cơ sở kết hợp giữa kế hoạch tự bồi dưỡng của mỗi cá nhân với kế hoạch bồi dưỡng của nhà trường cũng như của Phòng và Sở GD&ĐT.
Theo đó, công tác bồi dưỡng chuyên môn có tính chất thường xuyên liên tục chứ không chỉ tập trung ngắn hạn vào một thời gian nhất định trong năm học.
Ví dụ: Các giáo viên thường xuyên tham gia vào các hoạt động chuyên môn theo mô hình nghiên cứu bài học là một biện pháp bồi dưỡng và phát triển cộng đồng học tập trong mỗi trường học có nhiều hiệu quả.
Trong giai đoạn tới, công tác bồi dưỡng giáo viên sẽ được triển khai theo hình thức học kết hợp nên các học liệu luôn có sẵn trong trên hệ thống quản lý học tập trực tuyến (LMS).
Bên cạnh đó, mỗi một trường học sẽ có đội ngũ giáo viên cốt cán, những người sẽ đồng hành hỗ trợ các đồng nghiệp trong quá trình tự bồi dưỡng tại trường.
Thưa GS Đinh Quang Báo, giáo viên học ngành ghép: Hóa - Sinh, Sinh - Hóa... khi nhận văn bằng chỉ là Sư phạm Sinh học, hoặc Sư phạm Hóa học thì khi công tác giảng dạy sau này có phù hợp với chương trình học mới không?
GS Đinh Quang Báo, Phó Giám đốc Kỹ thuật Dự án RGEP:
Đào tạo GV mã ngành ghép môn này thì được xuất hiện ở nước ta trong các chương trình hệ Cao đẳng đào tạo GV dạy ở THCS. Gần đây một số trường đại học cũng đào tạo theo cách ghép môn như trên. Mục tiêu chung của chương trình đó là để ra trường GV dạy được 1 môn hoặc cả hai môn. Thường thì GV tùy theo sự phân công mà GV có thể dạy cả hai môn đó, hoặc là chỉ dạy một môn mà họ có thuận lợi hơn do ở trường cao đằng thì tỷ lệ đào tạo 2 môn đó không giống nhau.
Trong chương trình mới ở THCS có môn Khoa học tự nhiên thì cũng được cấu thành từ 3 chuyên ngành là Lý, Hóa, Sinh thì việc dạy môn tích hợp này không giống với việc dạy các môn học đó một cách riêng rẽ như trước đây bởi vì môn Khoa học tự nhiên có đối tượng là bản chất của thế giới tự nhiên được thể hiện bởi các nguyên lý tồn tại vận động của tự nhiên. Trong đó kiến thức Vật lý, Hóa học, Sinh học là những vật liệu để hình thành các nguyên lý đó. Cho nên dù là dạy một môn hay hai môn thì đều phải hướng tới hình thành các nguyên lý của tự nhiên.
Vấn đề là những GV đã được đào tạo với bằng 2 môn đó thì có thuận lợi là họ đã có những kiến thức thuộc lĩnh vực môn Khoa học tự nhiên, nhưng chưa đủ.
Để có thể dạy được thì họ phải được bồi dưỡng cách tích hợp kiến thức của các chuyên ngành đó để làm sáng tỏ các nguyên lý của tự nhiên và để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn mà cần vận dụng kiến thức của 3 lĩnh vực đó.
Thưa GS Đinh Quang Báo, trong thời đại 4.0, chiến lược đào tạo nguồn nhân lực nói chung, đào tạo giáo viên nói viên cần có sự thay đổi cập nhật. Liệu Việt Nam có nên cân nhắc khả năng triển khai đào tạo thế hệ mới GV phổ thông các cấp ở trình độ thạc sĩ như cách làm ở các nước phát triển hay không?
GS Đinh Quang Báo, Phó Giám đốc Kỹ thuật Dự án RGEP:
Thời đại ngày nay, do sự phát triển của khoa học công nghệ, phát triển của khoa học giáo dục đòi hỏi yêu cầu nhân lực cho xã hội nói chung và yêu cầu GV phục vụ cho giáo dục các cấp học ngày càng cao. Để đáp ứng nâng cao đó thì có hai giải pháp:
Một là, nâng chuẩn nghề nghiệp GV lên song song với chuẩn đào tạo.
Hai là, tuyển những người giỏi nhất vào đào tạo để trở thành GV.
Với những yêu cầu đó, chuẩn đào tạo GV dần dần phải được nâng lên tối thiểu là trình độ Thạc sĩ. Đó cũng là xu hướng của các nước có nền giáo dục tiên tiến (ví dụ như Phần Lan phổ cập giáo viên là trình độ Thạc sĩ). Nâng trình độ Thạc sĩ sẽ có điều kiện để nâng cao năng lực nghề nghiệp GV đáp ứng tốt đổi mới chương trình với những lý do sau đây:
+GV có thêm quỹ thời gian để chuẩn bị nghề nghiệp tốt hơn, nhất là chuẩn bị về mặt thực hành nghề nghiệp ở phổ thông.
+GV có điều kiện để vừa được đào tạo nền tri thức rộng, vừa trên cơ sở đó có điều kiện để học sâu một chuyên ngành để họ có năng lực như một chuyên gia.
+Có điều kiện để thực hiện phương thức đào tạo gắn nhà trường phổ thông với đào tạo sư phạm. Ví dụ, người ta có thể chia quá trình đào tạo làm 2 giai đoạn: giai đoạn 1 đào tạo nội dung Khoa học cơ bản; giai đoạn sau tập trung đào tạo khoa học nghiệp vụ theo phương thức nội trú.
+Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực nghề nghiệp của GV vì CMCN 4.0 được đặc trưng bởi khả năng tư duy kết nối các lĩnh vực tri thức để tạo ra các giải pháp công nghệ. Mà tri thức kết nối phải được chuẩn bị từ giáo dục phổ thông, mà phương thức nổi bật nhất được thể hiện ở phương thức giáo dục tích hợp. Giáo dục năng lực kết nối ở một số nước tiên tiến trên thế giới, người ta còn đề nghị bắt đầu từ lứa tuổi mầm non. Với yêu cầu đó, GV phải được đào tạo những phẩm chất của nhân lực CMCN 4.0. Mặt khác, trong chương trình GDPT mới 2018 cũng đã có những đổi mới theo hướng đáp ứng CMCN 4.0. Đặc biệt được thể hiện ở các môn như Công nghệ, Khoa học tự nhiên, Toán học, Công nghệ thông tin. Giáo dục STEM là một trong những biểu hiện của nhà trường đáp ứng cho việc chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng CMCN 4.0.
Tới đây các trường Sư phạm cần chuyển động theo hướng nào để bắt nhịp với Chương trình mới, đặc biệt là khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học có hiệu lực, các trường sẽ phải thực hiện cơ chế tự chủ?
GS Đinh Quang Báo, Phó Giám đốc Kỹ thuật Dự án RGEP:
Để bắt nhịp với đổi mới giáo dục phổ thông thì các trường Sư phạm phải đổi mới theo các hướng sau:
Một là đổi mới mục tiêu đào tạo theo hướng đào tạo GV trở thành nhà giáo dục, nhà khoa học, nhà văn hóa và hoạt động xã hội trên nền hiểu biết vừa rộng vừa sâu một chuyên ngành.
Hai là đổi mới về nội dung đào tạo thì có các ý sau: đào tạo tri thức rộng; tích hợp nội dung đào tạo khoa học cơ bản với khoa học sư phạm, tạo cho GV có năng lực chuyển đổi tri thức khoa học thành tri thức sư phạm.
Ba là đổi mới về phương thức đào tạo: đào tạo theo hướng tích hợp sư phạm phổ thông theo hướng đào tạo nội trú (đào tạo vừa học vừa làm tại trường phổ thông), và đào tạo theo nhu cầu của nhà sử dụng sản phẩm.
Bốn là các trường Sư phạm phải tham gia phát triển các sản phẩm dịch vụ cho giáo dục phổ thông. Ví dụ, phát triển các chương trình bồi dưỡng theo các chủ đề mà nhà trường có nhu cầu; phát triển hệ thống học liệu, ấn phẩm hay các học liệu số…; phát triển các ngân hàng đề kiểm tra, đánh giá…
GS Đinh Quang Báo, Phó Giám đốc Kỹ thuật Dự án Dự án Hỗ trợ đổi mới giáo dục phổ thông (RGEP) nghiên cứu câu hỏi của độc giả gửi đến.
Thưa PGS Hiền, ông có thể cho biết trách nhiệm, quyền lợi của đội ngũ cốt cán khi hỗ trợ đồng nghiệp tự bồi dưỡng tại chỗ?
PGS.TS Nguyễn Văn Hiền, Phó giám đốc Chương trình ETEP:
Đội ngũ cốt cán bao gồm cán bộ quản lý cơ sở giáo dục phổ thông (Hiệu trưởng cốt cán) và giáo viên phổ thông cốt cán. Trong đó, tiêu chuẩn quy trình lựa chọn và nhiệm vụ của hiệu trưởng cốt cán đã được quy định tại điều 12, thông tư 14/2018/TT-BGDĐT ngày 20/7/2018; Đối với giáo viên phổ thông cốt cán, tiêu chuẩn quy trình lựa chọn và nhiệm vụ cũng được quy định tại điều 12 thông tư 20/2018/TT- BGDĐT ngày 22/8/2018.
Có thể vắn tắt về nhiệm vụ của đội ngũ cốt cán như sau: Hỗ trợ đồng nghiệp trong cùng nhà trường, hỗ trợ đồng nghiệp trong cùng địa bàn; Phối hợp với các cấp quản lý trực tiếp cũng như đơn vị bồi dưỡng giáo viên xây dựng kế hoạch, phát triển tài liệu bồi dưỡng đồng nghiệp.
Đặc biệt, hỗ trợ đồng nghiệp trong quá trình tự học qua mạng.
Về quyền lợi của đội ngũ cốt cán, sẽ được bồi dưỡng trực tiếp nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, được hướng dẫn xây dựng kế hoạch hỗ trợ đồng nghiệp và thường xuyên được cập nhật kiến thức mới thông qua hệ thống học tập trên mạng.
Thưa GS Đinh Quang Báo, biến quá trình bồi dưỡng thành quá trình tự bồi dưỡng là chủ trương đúng nhưng cần có những điều kiện như thế nào? Để biến quá trình bồi dưỡng thành quá trình tự bồi dưỡng đòi hỏi GV phải có nhu cầu tự thân. Làm thế nào để GV có nhu cầu tự bồi dưỡng?
GS Đinh Quang Báo, Phó Giám đốc Kỹ thuật Dự án RGEP:
Với câu hỏi này, có 2 ý:
Trước hết, GV tự bồi dưỡng cần 3 điều kiện chính sau:
Một là, mỗi nhà trường cần tạo thành cộng đồng học tập, tương tác hỗ trợ nhau để phát triển nghề nghiệp.
Thứ hai là, họ phải có những hệ thống học liệu hỗ trợ một cách cập nhật thường xuyên.
Thứ ba là, họ phải biết cách tự bồi dưỡng.
Trong hệ thống học liệu, ngoài những học liệu văn bản, các tài liệu ấn phẩm thì có hệ thống tài liệu online. Bộ GD-ĐT cũng đã chuẩn bị những tài liệu cơ bản để bồi dưỡng cho GV theo 2 hình thức tài liệu đó.
Ý thứ hai, để GV xuất hiện nhu cầu tự bồi dưỡng, thì yếu tố đầu tiên quyết định đó là họ phải ý thức được trách nhiệm nghề nghiệp của mình trước học sinh, phụ huynh và xã hội.
Yếu tố thứ hai là GV phải được đánh giá thường xuyên. Trong đánh giá thường xuyên thì tự đánh giá của GV là quan trọng nhất, và đánh giá của tổ chức, đồng nghiệp.
Yếu tố thứ ba là họ phải được khích lệ bằng những chính sách, ví dụ như những chính sách đãi ngộ vật chất (tăng lương sớm, được ưu tiên cử đi bồi dưỡng…).
PGS.TS Nguyễn Văn Hiền, Phó giám đốc Chương trình Phát triển các trường sư phạm để nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục phổ thông (ETEP) khẳng định khả năng chiếm lĩnh kiến thức kĩ năng mới của giáo viên phụ thuộc rất nhiều vào tính tự chủ trong quá trình tự học qua mạng.
Thưa PGS.TS Lê Huy Hoàng, ông có thể cho biết vai trò của các trường sư phạm trong tổ chức tập huấn giáo viên đáp ứng chương trình mới như thế nào?
PGS.TS Lê Huy Hoàng, Chủ biên chương trình công nghệ - Chương trình GDPT mới:
Sau khi ban hành chương trình GDPT mới, công việc có tính chất quyết định tới thành công của chương trình là các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý triển khai chương trình.
Trong giai đoạn này, các trường sư phạm đóng vai trò chủ chốt được thể hiện thông qua các đóng góp chủ yếu sau:
- Tham gia biên soạn tài liệu, kịch bản tập huấn hướng dẫn thực hiện chương trình GDPT mới.
- Phát triển đội ngũ giảng viên sư phạm chủ chốt
- Trực tiếp tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý giáo viên cốt cán ở phổ thông về chương trình GDPT mới.
- Hỗ trợ cán bộ quản lý, giáo viên phổ thông trước và sau tập huấn thông qua môi trường trực tuyến.
- Tham gia đánh giá kết quả tập huấn của cán bộ quản lý, giáo viên phổ thông tham gia tập huấn.
Xin GS Đinh Quang Báo cho biết, theo kinh nghiệm của người làm công tác quản lý GD, người hiệu trưởng cần làm gì để tạo môi trường làm việc, tạo động lực cho GV sáng tạo?
GS Đinh Quang Báo, Phó Giám đốc Kỹ thuật Dự án RGEP:
Từ kinh nghiệm đúc rút được trong quá trình làm hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi thấy để tạo động lực sáng tạo cho GV, hiệu trưởng nhà trường phải thực hiện các hoạt động sau:
Một là, khích lệ đổi mới nghề nghiệp bằng giải pháp quản lý để nhà trường trở thành tổ chức có văn hóa chất lượng, tổ chức biết học hỏi.
Hai là, những sản phẩm đổi mới của cá nhân, nhóm giáo viên, tổ chuyên môn cần được chia sẻ nhân lên trong tập thể sư phạm nhà trường.
Ba là, quản lý nhà trường phải tạo cơ hội cho giáo viên được giao lưu với các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng GV nghiên cứu khoa học và các nhà trường phổ thông khác cùng địa bàn.
Bốn là, phải có những chính sách khích lệ, đãi ngộ về vật chất và tinh thần cho những GV có nhiều sáng tạo nghề nghiệp.
Các vị khách mời GS Đinh Quang Báo (giữa), PGS.TS Nguyễn Văn Hiền (thứ 2 từ phải sang) và PGS.TS Lê Huy Hoàng (thứ 2 từ trái sang) có mặt để giải đáp về nội dung "Bồi dưỡng giáo viên đáp ứng chương trình GDPT mới"
Trong bối cảnh đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, vai trò của người giáo viên cũng có những thay đổi theo hướng đảm nhận nhiều chức năng hơn, trách nhiệm nặng nề hơn. Giáo viên phải chuyển từ truyền thụ tri thức sang tổ chức cho học sinh chiếm lĩnh tri thức, giúp các em hình thành và phát triển các phẩm chất, năng lực được quy định trong Chương trình tổng thể.
Bên cạnh đó, các nhà giáo cần chú trọng dạy học phân hóa, biết sử dụng tối đa những nguồn tri thức trong xã hội, biết sử dụng công nghệ thông tin, phương tiện kỹ thuật dạy học; đồng thời có năng lực tự học để không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Yêu cầu hợp tác làm việc với đồng nghiệp chặt chẽ hơn, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp, ứng xử trong các quan hệ xã hội, với cha mẹ học sinh, học sinh và các tổ chức xã hội khác...
Yêu cầu đối với một nhà giáo mới là phải làm chủ được môi trường công nghệ thông tin và truyền thông mới, đồng thời phải chuẩn bị về mặt tâm lý cho một sự thay đổi cơ bản vai trò của người thầy, từ chỗ chủ yếu là truyền thụ tri thức, thành người tổ chức, hướng dẫn học sinh học và tự học; giúp các em xây dựng niềm tin, nhận thức, cách ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức và quy định của pháp luật, có kĩ năng sống và bản lĩnh để học tập, làm việc và sẵn sàng thực hiện trách nhiệm công dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.
Thông qua đó, đội ngũ giáo viên đã chuyển tải tri thức mới, kĩ năng mới góp phần phát huy tiềm năng sáng tạo và khả năng thích ứng với cuộc sống, môi trường và nghề nghiệp tương lai.
Các chuyên gia Dự án Hỗ trợ đổi mới giáo dục phổ thông (RGEP) và Chương trình Phát triển các trường sư phạm để nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục phổ thông (ETEP) sẽ trực tiếp giải đáp những thắc mắc của bạn đọc liên quan đến lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng giáo viên đáp ứng Chương trình GDPT mới trong giao lưu trực tuyến diễn ra sáng 14/6.
Buổi giao lưu trực tuyến sáng 14/6 có sự tham dự của 3 vị khách mời:
GS Đinh Quang Báo, Phó Giám đốc Kỹ thuật Dự án Dự án Hỗ trợ đổi mới giáo dục phổ thông (RGEP).
Ông Nguyễn Văn Hiền, Phó giám đốc Chương trình Phát triển các trường sư phạm để nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục phổ thông (ETEP).
PGS. TS Lê Huy Hoàng, Chủ biên chương trình công nghệ - Chương trình GDPT mới, Trưởng khoa SP kỹ thuật, ĐH Sư phạm Hà Nội.
Ban Giáo dục