Cuộc thi KHKT cấp quốc gia: Nhiều đề tài đã bắt nhịp với công nghiệp 4.0

(Dân trí) - Nhiều đề tài trong cuộc thi khoa học kỹ thuật cấp quốc gia dành cho học sinh năm 2018 có 5.000 dự án tham gia, trong đó nhiều dự án iên quan đến công nghệ thông tin, phần mềm hệ thống; hệ thống nhúng; robot và các máy thông minh... Điều này thể hiện sự bắt nhịp với công nghiệp 4.0 của học sinh.

Đó là đánh giá của PGS. TS Nguyễn Xuân Thành, Phó vụ trưởng vụ Giáo dục Trung học, Bộ GD&ĐT về cuộc thi Khoa học Kỹ thuật cấp quốc gia dành cho học sinh năm 2018.

Ông Thành cho biết, các dự án tham gia cuộc thi năm nay tăng cả về số lượng và chất lượng với khoảng 5.000 dự án. Số lượng dự án liên quan đến công nghệ thông tin, phần mềm hệ thống; hệ thống nhúng; robot và các máy thông minh tăng lên nhiều so với năm trước. Toàn quốc có 488 dự án đã có tới 94 dự án thuộc 3 lĩnh vực trên. Điều này thể hiện sự bắt nhịp với công nghiệp 4.0 của học sinh.

Về chất lượng, nhiều dự án nghiên cứu của học sinh năm nay đã biết thu hẹp được phạm vi nghiên cứu để xác định được những vấn đề cụ thể hơn, giải quyết những vấn đề sát với thực tiễn cuộc sống.

Từ tiêu chí chấm thi, kế hoạch nghiên cứu được triển khai sớm từ Bộ đến địa phương giúp học sinh áp dụng tốt hơn phương pháp nghiên cứu khoa học, từ việc lựa chọn vấn đề, đề xuất giải pháp và thực hiện giải pháp giải quyết vấn đề đã thể hiện sự tiến bộ đáng kể so với những năm trước.

Tuy nhiên, cũng có một số dự án chưa biết cách trình bày các poster tốt, một số poster khi trình bày lên vẫn còn nhiều chữ, một số thì không rõ được phần kế hoạch và phương pháp nghiên cứu, một số vẫn dành nhiều không gian để viết tính mới của đề tài một cách chủ quan theo nhận định của người làm. Kết luận của một số dự án khi đọc lên chưa được khách quan…


PGS. TS Nguyễn Xuân Thành, Phó vụ trưởng vụ Giáo dục Trung học, Bộ GD&ĐT

PGS. TS Nguyễn Xuân Thành, Phó vụ trưởng vụ Giáo dục Trung học, Bộ GD&ĐT

Một số luồng dư luận cho rằng đối với học sinh THCS còn quá nhỏ, với cách tiếp cận kiến thức lý thuyết đến đề tài vẫn còn mơ hồ, có hay không các đề tài này là do người lớn giúp đỡ mới có?

Chúng tôi cũng đã nhận được nhiều câu hỏi, học sinh lớp 8, 9 thi đấu ngang ngửa với lớp 10, 11, 12 thì công bằng không? Để trả lời câu hỏi này, tôi xin nhắc lại tiêu chí đánh giá dự án dự thi như sau: Câu hỏi nghiên cứu/vấn đề cần giải quyết/ 10 điểm; Kế hoạch và phương pháp nghiên cứu: 15 điểm; Thực hiện kế hoạch nghiên cứu: 20 điểm; Tính sáng tạo: 20 điểm; Trình bày poster: 10 điểm; Phỏng vấn: 25 điểm.

Nhắc lại điều này để thấy rằng các tiêu chí đó không phân biệt lứa tuổi học sinh, bởi vấn đề nghiên cứu là do học sinh xác định, phù hợp và vừa sức với chính các em và dự án sẽ được đánh giá dựa trên tính phù hợp và vừa sức đó. Qua đó, đánh giá đúng năng lực nghiên cứu khoa học, thể hiện ở sự đóng góp của học sinh vào dự án nghiên cứu của mình.

Có thể đề tài sẽ không liên quan đến lứa tuổi nhưng sẽ liên quan đến kiến thức được học trong nhà trường, ông nghĩ sao về điều này? và Ban tổ chức cuộc thi có cách nào để hạn chế việc học sinh sử dụng các đề tài của thầy cô và bố mẹ để đi thi?

Một ý tưởng bao giờ cũng xuất phát từ cơ sở khoa học. Tiêu chí đánh giá dự án của chúng ta không chỉ căn cứ vào sản phẩm cuối cùng mà từ các sản phẩm đó để đánh giá năng lực nghiên cứu của học sinh, sự tham gia vào quá trình nghiên cứu của học sinh. Vì vậy, mỗi vấn đề nghiên cứu, quá trình nghiên cứu sẽ tương xứng với kiến thức nghiên cứu mà học sinh đó có.

Phải nhấn mạnh rằng, kiến thức học sinh đó có không có nghĩa là kiến thức mà lớp của học sinh đó đang học. Ngay cả học sinh lớp 11, 12 để làm đề tài thì thậm chí kiến thức phải cao hơn nữa.

Từ vấn đề học sinh phát hiện ra cần tiếp tục đi sâu và cần có sự hỗ trợ của các nhà khoa học đồng hành, hỗ trợ. Mỗi dự án đều có một người hướng dẫn khoa học. Ban giám khảo quan tâm đến việc học sinh tham gia vào nghiên cứu khoa học đến đâu? Học sinh trả lời tại sao lại nghĩ như thế? Tại sao lại chọn như thế? Hạn chế ở đâu.

Trong nhiều cách để giải quyết hạn chế, vì sao học sinh chọn cách này mà không chọn cách kia. Đây là những nội dung mà học sinh không thực sự làm sẽ không trả lời được. Tiếp theo, việc thiết kế các kế hoạch nghiên cứu, học sinh phải lý giải được tại sao lại làm bước này trước, bước kia sau. Từ đây sẽ lựa chọn được những học sinh nghiên cứu khoa học nghiêm túc.


Các em học sinh tự tin giới thiệu trong lễ khai mạc cuộc thi khoa học kỹ thuật cấp quốc gia học sinh trung học năm học 2017-2018, khu vực phía Nam.

Các em học sinh tự tin giới thiệu trong lễ khai mạc cuộc thi khoa học kỹ thuật cấp quốc gia học sinh trung học năm học 2017-2018, khu vực phía Nam.

Chương trình giáo dục hiện nay đang gắn với kiến thức nhiều hơn là thực tiễn, điều này gây khó khăn gì cho hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường phổ thông, Bộ có giải pháp nào để khắc phục vấn đề này?

Học sinh nghiên cứu khoa học bao giờ cũng gắn với những hình thức dạy học trong nhà trường. Bộ GD&ĐT đã đặt ra mục tiêu phát triển giáo dục năng lực phẩm chất học sinh. Câu hỏi học sinh chúng ta có năng lực không? Có nhưng chưa như mong muốn.

Để học sinh có năng lực thì phải đổi mới phương pháp và tổ chức hoạt động học. Giáo viên của chúng ta đã được trang bị kiến thức lý thuyết về phương pháp và tổ chức hoạt động học.

Vấn đề là việc sử dụng phương pháp này còn chưa được thường xuyên. Hạn chế một phần là do chương trình sách giáo khoa hiện hành theo định hướng nội dung, chưa thuận lợi cho việc đổi mới phương pháp dạy học. Những bất cập này Bộ GD&ĐT đang khắc phục trong chương trình mới.

Nghiên cứu khoa học gắn chặt chẽ với chương trình và phương pháp dạy học? Từ nhiều năm qua, Bộ chỉ đạo đổi mới nội dung, phương pháp dạy học gắn với thực tiễn, triển khai thí điểm giáo dục STEM trong giáo dục phổ thông.

Theo đó, giáo viên đóng vai trò là người tổ chức hoạt động học của học sinh; học sinh tích cực, tự lực học tập, tiếp nhận kiến thức và vận dụng vào thực tiễn. Từ đó phát hiện và bồi dưỡng những học sinh có năng lực và say mê nghiên cứu khoa học.

Đồng thời, Bộ sẽ tiếp tục chú trọng bồi dưỡng cho giáo viên những kiến thức để hỗ trợ, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học trong nhà trường.

Xin trân trọng cám ơn ông!

Kim Hồng

Dòng sự kiện: Gương sáng giáo dục