1. Dòng sự kiện:
  2. Cuộc đại sắp xếp các trường đại học
  3. Nghị quyết 71 về đột phá phát triển giáo dục

Cần tổ chức lại khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân trong giai đoạn mới

CTV

(Dân trí) - Để đạt mục tiêu phát triển con người toàn diện như Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đề ra, Việt Nam cần sớm xây dựng một hệ thống giáo dục quốc dân mở, liên thông và hội nhập quốc tế.

Trong Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng, mục tiêu phát triển con người toàn diện và xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao tiếp tục được khẳng định là một trong ba khâu đột phá chiến lược. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam cần có một khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân phù hợp với xu thế mở, liên thông và hội nhập quốc tế.

Thực tế cho thấy, sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam vẫn bộc lộ nhiều bất cập. Cơ cấu các bậc học và trình độ đào tạo chưa thống nhất, thiếu tính liên thông, làm hạn chế khả năng học tập suốt đời của người dân và cản trở việc xây dựng xã hội học tập.

Từ góc nhìn chuyên môn, tôi cho rằng đây là thời điểm cần mạnh dạn tái cấu trúc hệ thống giáo dục quốc dân, không chỉ để phù hợp với điều kiện trong nước mà còn để tương thích với chuẩn quốc tế, hướng tới mục tiêu con người là trung tâm của phát triển bền vững.

Cần tổ chức lại khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân trong giai đoạn mới - 1

Lễ khai giảng năm học mới tại Trường THPT Trần Phú, TPHCM (Ảnh: Khoa Nguyễn).

Hệ thống hiện hành còn khép kín và thiếu tính liên thông

Cơ cấu hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay được quy định trong ba Luật: Luật Giáo dục, Luật Giáo dục nghề nghiệp và Luật Giáo dục đại học. Tuy nhiên, giữa ba bộ phận này vẫn tồn tại sự tách biệt và chồng chéo.

Toàn hệ thống không có sự nhất quán để tạo thành một hệ thống giáo dục mở do khối Giáo dục nghề nghiệp (GDNN) được tách riêng biệt. Do không phải là một bậc học nên không thể xem khối này nằm ở vị trí trên giáo dục trung học và dưới giáo dục đại học. Ngay giữa các trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng trong khối đó cũng không có sự liên thông thực sự. Luật GDNN quy định muốn được dự tuyển vào cao đẳng thí sinh phải đồng thời vừa có bằng trung cấp vừa có bằng tốt nghiệp THPT.

Từ cao đẳng chuyển lên đại học lại càng không dễ dàng chút nào vì có sự khác nhau về chuẩn cấp độ học vấn và cấu trúc chương trình đào tạo, do 2 cơ quan quản lý nhà nước khác nhau quy định.

Theo Phân loại giáo dục theo tiêu chuẩn quốc tế của UNESCO (ISCED 2011), các trình độ sơ cấp và trung cấp hiện nay không tương ứng với bất kỳ một cấp độ nào của ISCED2011.

Thí dụ như, đối với trình độ trung cấp, tùy theo cấp độ văn hoá đầu vào của người học, nếu đã tốt nghiệp THCS thì người đó chỉ đạt được cấp độ 2/3 của ISCED (vì có thời gian đào tạo quá ngắn), còn nếu đã tốt nghiệp THPT thì người đó đã đạt được cấp độ 4 của ISCED. Nhưng theo Luật GDNN thì cả 2 đối tượng người học đều có cùng một trình độ.

Ngoài ra ISCED 2011 cũng quy định trình độ cao đẳng phải thuộc về giáo dục đại học trong khi theo Luật GDNN thì cao đẳng không được xem thuộc giáo dục đại học.

Từ thực tế trên, việc phân luồng học sinh sau THCS là lối đi vào “ngõ cụt” vì người học không có hướng học lên.

Phần lớn học sinh đều cố gắng vào được THPT để thi đại học, hay chí ít là cao đẳng. Nếu không thể vào được THPT, họ bị hạn chế cơ hội học tiếp - điều đi ngược với tinh thần “học tập suốt đời” mà Nghị quyết 29 đã đề ra.

Hướng tới hệ thống giáo dục mở, linh hoạt và hội nhập

Để khắc phục những bất cập nói trên, cần hình thành một hệ thống giáo dục quốc dân mở, liên thông và thống nhất, bao gồm các bậc học và trình độ đào tạo được sắp xếp logic, phù hợp với thông lệ quốc tế.

Nguyên tắc cơ bản của hệ thống này là phân luồng nhưng không “đóng luồng”: người học ở bất kỳ hướng nào - học thuật hay nghề nghiệp - đều có cơ hội học tiếp lên trình độ cao hơn nếu đủ năng lực. Mọi con đường học tập đều dẫn đến những cơ hội phát triển ngang nhau.

Cụ thể, sau THCS, học sinh có thể chọn hai hướng: THPT hoặc trung học nghề.

Luồng THPT chủ yếu cung cấp nguồn tuyển cho cao đẳng và đại học. Luồng trung học nghề chủ yếu cung cấp nhân lực tham gia thị trường lao động, một bộ phận không nhỏ cũng sẽ là nguồn tuyển cho cao đẳng thực hành và tiếp sau đó là đại học ứng dụng. Dự tính bước đầu luồng THPT chiếm không quá 50%, luồng trung học nghề chiếm trên 30% quy mô học sinh tốt nghiệp THCS.

Tương tự, sau THPT, học sinh có 2 hướng: đại học nghiên cứu/học thuật (4-6 năm) và ứng dụng/thực hành/chuyên nghiệp bao gồm cao đẳng thực hành (3 năm) và đại học ứng dụng (4 năm).

Trong khi đó thời gian thiết kế cho học sinh từ trung học nghề lên cao đẳng thực hành chỉ là 2 năm, từ cao đẳng thực hành lên đại học ứng dụng là 2 năm. Đây là giải pháp rất phổ biến ở nhiều nước để khuyến khích học sinh sau THCS tự nguyện đi theo luồng trung học nghề. Một số nước, tỷ lệ phân luồng giữa THPT và trung học nghề có thể đạt tới tỷ lệ 30:70.

Hệ thống này sẽ giúp đa dạng hóa nguồn nhân lực và đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số, nơi kỹ năng thực hành và sáng tạo đều quan trọng như nhau. Quan trọng hơn, nó bảo đảm cơ hội học tập suốt đời - nguyên tắc cốt lõi của mọi nền giáo dục tiên tiến.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các nước phát triển đều thiết kế hệ thống giáo dục mở, đa lối vào, đa lối ra. Người học có thể quay lại trường để học tiếp tục bất cứ lúc nào, tích lũy tín chỉ, chuyển đổi ngành nghề dễ dàng. Việt Nam cần học tinh thần này, không sao chép mô hình, mà là tư duy hệ thống linh hoạt gắn với thực tiễn của mình.

Cần tổ chức lại khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân trong giai đoạn mới - 2

Cần hình thành một hệ thống giáo dục quốc dân mở, liên thông và thống nhất, phù hợp với thông lệ quốc tế (Ảnh: Đỗ Minh Quân).

Kiến nghị hoàn thiện chính sách và thống nhất quản lý giáo dục

Để hiện thực hóa định hướng trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV, tôi xin kiến nghị một số giải pháp trọng tâm như sau:

Thứ nhất, cần thống nhất đầu mối quản lý giáo dục quốc dân. Việc tách giáo dục nghề nghiệp khỏi hệ thống chung đã gây chia cắt và làm giảm hiệu quả chiến lược nhân lực quốc gia. Tất cả các trình độ, từ mầm non đến sau đại học, cần được quản lý thống nhất bởi một cơ quan duy nhất là Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhằm đảm bảo tính đồng bộ về chính sách, chuẩn đầu ra và phân tầng chất lượng.

Thứ hai, cần thực hiện cơ chế phân cấp quản lý về giáo dục - đào tạo cho các địa phương và các cơ sở giáo dục (về ngành nghề, nội dung chương trình, mạng lưới cơ sở giáo dục…), bám sát cơ cấu chuyển dịch kinh tế và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng miền, cũng như ở tầm quốc gia.

Thứ ba, cần thiết kế lại khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân phù hợp với chuẩn ISCED 2011, bảo đảm tính tương thích và công nhận lẫn nhau trong khu vực và quốc tế. Khi đó, việc công nhận văn bằng, tín chỉ và chuyển tiếp giữa các trình độ sẽ minh bạch và hiệu quả hơn.

Thứ tư, cần tổ chức lại hệ thống các trường THPT, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề, các cơ sở dạy nghề ở địa phương để hình thành nên 2 loại trường cơ bản là trung học phổ thông và trung học nghề/trung học kỹ thuật.

Thứ năm, cần khuyến khích mạnh mẽ giáo dục nghề nghiệp bằng chính sách ưu đãi về học phí, học bổng và cơ hội việc làm. Phải làm cho xã hội hiểu rằng học nghề không kém giá trị so với học đại học. Muốn vậy, phải tạo điều kiện cho người học nghề có thể học tiếp lên cao, trở thành kỹ thuật viên, kỹ sư ứng dụng hay chuyên gia công nghệ.

Cuối cùng, cần đẩy mạnh tự chủ học thuật, tài chính và tổ chức cho các cơ sở giáo dục đại học, đi đôi với trách nhiệm giải trình minh bạch. Chỉ khi các trường được tự chủ thực chất, giáo dục mới sáng tạo và đáp ứng nhu cầu xã hội.

Một hệ thống giáo dục quốc dân mở, liên thông, hội nhập quốc tế và đặt con người làm trung tâm không chỉ là yêu cầu của ngành giáo dục, mà còn là điều kiện tiên quyết để Việt Nam đạt được khát vọng phát triển 2045.

Nếu không sớm thay đổi cách tổ chức hệ thống, chúng ta sẽ tiếp tục chứng kiến tình trạng mất cân đối nhân lực, đứt gãy giữa đào tạo và sử dụng, tụt hậu trong cạnh tranh toàn cầu. Ngược lại, nếu thiết kế được một cơ cấu hợp lý, nơi mọi người dân đều có cơ hội học tập suốt đời, đó sẽ là cải cách mang tính nền tảng, bền vững và nhân văn nhất cho sự nghiệp giáo dục Việt Nam.

Đổi mới giáo dục, xét đến cùng, không chỉ là đổi mới chương trình hay phương pháp dạy học, mà trước hết là đổi mới tư duy về hệ thống và con đường học tập của người Việt Nam trong thế kỷ XXI.

TS Lê Viết Khuyến – Nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học, Bộ GD&ĐT