Các chương trình liên kết nâng cao chỉ số quốc tế hóa của trường đại học
“Các chương trình liên kết đã tạo điều kiện để chỉ số quốc tế hóa của các trường đại học nâng cao hơn, tạo cơ hội cho Việt Nam tiếp nhận công nghệ giáo dục tiên tiến”, GS. TSKH. Nguyễn Trọng Do cho biết như vậy.
GS Nguyễn Trọng Do (ảnh): Khoa Quốc tế trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN), có tư cách pháp nhân, được thành lập tháng 7/2002, là một trong những cơ sở đào tạo công lập đầu tiên trong cả nước chỉ thực hiện đào tạo liên kết quốc tế. Trong hơn 9 năm xây dựng và phát triển, khoa Quốc tế đã triển khai thành công các chương trình đào tạo bằng các thứ tiếng Anh, Nga, Pháp, Trung Quốc, gồm 8 chương trình đào tạo đại học (trong đó có 2 chuyên ngành do ĐHQGHN cấp bằng là Kinh doanh quốc tế và Kế toán, phân tích và kiểm toán) và 6 chương trình cao học.
Tất cả các chương trình đều là chương trình chuẩn của các trường đại học nước ngoài uy tín. Sinh viên sau khi ra trường được nhận văn bằng chính quy của các trường đại học đối tác nước ngoài có giá trị toàn cầu.
Sản phẩm đầu ra của khoa Quốc tế đã được thị trường lao động đánh giá cao. Người tốt nghiệp vừa có kiến thức và kỹ năng theo chuẩn giáo dục quốc tế và sử dụng ít nhất một ngoại ngữ thành thạo, chúng tôi vẫn thường gọi là sản phẩm 2 trong 1. Với những lợi thế ưu việt như vậy, trên 90% sinh viên tốt nghiệp các chuyên ngành của khoa có việc làm ngay, đúng ngành đào tạo với thu nhập cao tại các doanh nghiệp, tổ chức Việt Nam và nước ngoài hoặc được tiếp nhận vào học ở bậc cao hơn.
Chương trình liên kết đào tạo quốc tế của khoa Quốc tế đóng vai trò như thế nào trong sự phát triển của nền giáo dục nước nhà, với việc theo chuẩn giáo dục quốc tế, thưa ông?
GS Nguyễn Trọng Do: Các chương trình đào tạo của khoa Quốc tế trực thuộc ĐHQGHN đều thuộc loại hình chính quy, tập trung, được cơ quan kiểm định công nhận ở các nước sở tại. Quy trình tuyển sinh, đào tạo, khảo thí thực hiện đúng như ở bản quốc. Việc đào tạo theo chuẩn quốc tế góp phần đa dạng giáo dục đại học; đem mô hình giáo dục tiên tiến, hiệu quả đến Việt Nam; tạo dựng các điều kiện cần và đủ để từng bước tiếp nhận công nghệ đào tạo tiên tiến của các nước trong khu vực và quốc tế.
Môi trường đào tạo liên kết quốc tế cũng đã hình thành nên một cộng đồng giáo dục quốc tế bao gồm những giảng viên giỏi chuyên môn, giỏi ngoại ngữ, giàu kinh nghiệm sư phạm và kinh nghiệm thực tế. Đội ngũ cán bộ, chuyên viên làm công tác quản lý “kề vai sát cánh” với đồng nghiệp nước ngoài, làm việc có tính chuyên nghiệp cao, là cầu nối hiệu quả giữa sinh viên và giảng viên nước ngoài. Cơ sở vật chất, thư viện cũng chính là một lợi thế lớn của chương trình liên kết đào tạo. Sinh viên không chỉ được sử dụng những nguồn học liệu đáp ứng được yêu cầu khắt khe của trường đối tác, liên tục được cập nhật mỗi năm tại Việt Nam mà còn có cơ hội nắm bắt những kiến thức quý báu, bổ ích từ nguồn thư viện điện tử khổng lồ của các trường đại học đối tác.
Theo ông các chương trình đào tạo liên kết quốc tế có điểm gì độc đáo hơn các chương trình đào tạo truyền thống?
GS Nguyễn Trọng Do: Trước hết, tôi xin nêu 2 con số để chúng ta thấy xu hướng phát triển của các chương trình đào tạo liên kết quốc tế. Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 300 chương trình đào tạo liên kết quốc tế, còn tại Thái Lan con số này là 700. Các chương trình đào tạo liên kết quốc tế đang được phát triển ở Việt Nam theo các mô hình sau đây: (i) các chương trình đào tạo tiên tiến, giảng dạy bằng tiếng Anh hợp tác với các trường đại học đối tác có uy tín trên trên thế giới do Bộ GD-ĐT đề xuất và chỉ đạo; (ii) các trường đại học đẳng cấp quốc tế do Chính phủ Việt Nam thành lập và đầu tư, có cơ chế tự chủ cao và được sự hỗ trợ, hợp tác của nước ngoài; (iii) các trường đại học Việt Nam thành lập các viện, khoa và trung tâm đào tạo quốc tế, phối hợp với các trường đại học đối tác nước ngoài tổ chức các chương trình đào tạo liên kết quốc tế; (iv) trường đạo học quốc tế trong mô hình đại học đa ngành, đa lĩnh vực; (v) trường đại học quốc tế do nước ngoài đầu tư, quản lý và điều hành; (vi) trường đại học quốc tế tư thục.