Thầy giáo từ bỏ chức hiệu trưởng để “cõng” chữ lên non

Nằm giữa bao la gió núi và mây ngàn, bản Trung Phìn (xã Sinh Long, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang) gần như chỉ có mây mù và đói nghèo bủa vây. Thế rồi, ở cái nơi xa xôi thứ gì cũng thiếu ấy, có một thầy giáo đã tình nguyện từ bỏ chức danh hiệu trưởng để “cõng” cái chữ về cho bản làng. Đó là thầy giáo Bàn Hồng Phong.

Thầy giáo Bàn Hồng Phong đang củng cố lại kiến thức cho những em yếu kém
Thầy giáo Bàn Hồng Phong đang củng cố lại kiến thức cho những em yếu kém.

“Không có cơm mới chết, không có cái chữ vẫn sống”?

Vượt chặng đường dài hơn 300km từ thủ đô Hà Nội đến huyện Na Hang, tiếp tục “phượt bộ” theo chân đồng chí cán bộ khuyến nông xã Sinh Long, mất hơn 5 tiếng đồng hồ, chúng tôi mới leo lên đến đỉnh núi Trung Phìn cao hơn 1.000m so với mực nước biển. Khi tai đã ù đặc, mắt đã hoa lên, tôi mới thấm thía thế nào là vùng cao núi thẳm và ngấm hết sự hy sinh thầm lặng của thầy giáo Bàn Hồng Phong (dân tộc Dao đỏ, nguyên hiệu trưởng trường THCS xã Sinh Long, Na Hang) - người đã bỏ chức danh hiệu trưởng để “lên núi” làm một thầy giáo bình thường, mang “cái chữ” cho con em ở bản người Mông.

Trung Phìn vốn là nơi cheo leo, cách trở. Trước đây, Trung Phìn là địa bàn cư trú của đồng bào Dao đỏ. Năm 1979, người Dao đỏ “hạ sơn” theo lời kêu gọi định canh trồng lúa nước của chính quyền. Trung Phìn vì thế vắng bóng người. Từ năm 1986, bản Trung Phìn mới tiếp nhận đồng bào Mông từ Cao Bằng về. Ban đầu, chỉ mới 5 hộ dân với gần chục nhân khẩu, đến nay, Trung Phìn đã có 22 hộ dân tộc, với hơn 100 nhân khẩu. Sau gần 30 năm, đồng bào Mông ở đây đã sinh cơ lập nghiệp, khai hoang trồng trọt và chăn nuôi, dựng nên một Trung Phìn mới. Nhưng cũng ngần ấy thời gian, do địa hình núi đá cao nên con em đến tuổi đi học mà Trung Phìn vẫn chưa có trường, có lớp.

Nhận thấy rõ “điểm trũng” của ngành ở đây, năm 2012, Phòng Giáo dục Na Hang quyết định thành lập phân hiệu Trung Phìn, thuộc Trường THCS xã Sinh Long. Thầy Bàn Hồng Phong lúc ấy đang là hiệu trưởng của trường, tuy nhiên, không chần chừ chút nào, thầy đã tình nguyện cùng 2 giáo viên khác “cơm đùm, cơm nắm” lên bản.

Những ngày đầu gây dựng điểm trường của các giáo viên tâm huyết này rất vất vả. Mặc dù được thành lập phân hiệu nhưng nơi đây vẫn không có cơ sở vật chất, không có điện, nước thì phập phù. Khổ nhất vẫn là việc vận động bà con đồng ý để con em đến trường, đến lớp. Bởi trước tới nay, đồng bào Mông ở Trung Phìn sống du canh du cư, con cái từ thuở lọt lòng đến lúc trưởng thành cũng theo nếp sống đó.

Tâm sự với chúng tôi, thầy bảo: Từ bao đời nay, không chỉ riêng người Mông mà cả người dân tộc thiểu số vùng cao đều có quan niệm giống nhau rằng, không có cái chữ vẫn sống được, không có cơm gạo mới chết. Hiểu được tâm lý đó, thầy đã tìm mọi cách để thay đổi quan niệm của bà con.

Thầy bộc bạch tâm sự: “Mình sinh ra và lớn lên ở mảnh đất này nên mình hiểu. Xưa nay, chúng tôi vẫn có ngô ăn, vẫn có rượu uống mà đâu cần có cái chữ… Hầu hết sống cuộc sống du canh, du cư. Con họ mới chào đời đã phải theo mẹ lên nương rẫy rồi, gia đình nào đẻ được nhiều con coi như là giàu có vì sẽ có thêm nhân lực lên núi đào vàng, lên rừng khai thác gỗ, bắt được con thú to về nướng ăn… Cuộc sống như thế đối với họ là vui rồi. Chính vì vậy mà cái đói, cái nghèo, lạc hậu vẫn như chiếc vòng “kim cô” muôn đời muôn kiếp bám diết lấy họ”. Công việc gian nan nhất của thầy Phong là làm sao để đồng bào Mông hiểu được sự học là gì. Học để biết tính toán làm sao cái nương này trồng được nhiều ngô hơn, cánh rừng kia không được chặt gỗ đem bán nữa để giữ nguồn nước cho bản làng. Học để biết, tại sao con suối kia lại bị cạn, con trâu, con bò tại sao lại bị chết?

Các em vui đùa trong giờ ra chơi
Các em vui đùa trong giờ ra chơi.

Lớp học “4 trong 1”

Với những suy nghĩ như thế, đôi chân thầy Phong đã mòn không biết bao nhiêu dãy núi, dòng suối. “Mưa dầm thấm lâu”, cuối cùng bà con cũng nghe, đưa con em đến để thầy Phong bày cách làm sao con trâu, con bò không bị chết; cái nương rẫy cho nhiều ngô. Những buổi học đầu tiên, lớp chỉ có vài ba em, sau tăng dần lên dăm bảy em. Đến nay, phân hiệu đã có hơn ba chục học sinh người Mông theo học. Thầy vui hơn mỗi lần “nghe lỏm” các phụ huynh nói chuyện với nhau về sự học: “Vợ chồng thằng Sính nó biết đọc báo rồi đấy, thằng Văn con nó học giỏi nhất lớp đấy…”. Đến nay, có hơn 30 học sinh các khối, nhưng trường vẫn chỉ là tranh tre, nứa lá tạm bợ để che nắng che mưa; học ghép lớp 1 và lớp 2; lớp 3 và lớp 4; các thầy cô ở lại luôn tại đó. Những lúc mưa to bão lớn, thầy và trò đều phải tìm nhà dân gần đó sang trú mưa.

Niềm vui lại được nhân lên khi UBND huyện Na Hang lắp hệ thống pin năng lượng mặt trời, hoàn thành và đưa vào sử dụng năm 2014. Từ ngày có ánh sáng điện, buổi tối thầy và các đồng nghiệp củng cố kiến thức cho những em yếu kém và mở lớp xóa mù cho các bậc phụ huynh. “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, nghe các phụ huynh nói chuyện với nhau về việc học hành, thầy lấy đó làm niềm vui. Cứ vậy, mỗi tháng thầy mới xuống núi về thăm nhà một lần, cũng may là các con thầy nay đã khôn lớn hết rồi nên thầy rất yên tâm công tác.

Vận động bà con thay đổi nhận thức về sự học đã khó, nhưng giữ học sinh theo lớp đều đặn lại càng khó hơn. Cứ đến ngày mùa là học sinh lại bỏ học để đi nương, xong mùa cũng không muốn trở lại lớp. Công tác vận động học sinh mới thực sự gian nan. Leo bộ trong khu rừng nguyên sinh, vượt qua bao nhiêu thác đá, bánh chưng mang theo làm bữa ăn chính và uống nước trong khe đá, chúng tôi mới thấy hết nỗi gian truân vất vả của giáo viên ở phân hiệu Trung Phìn đi làm “vận động”.

Không ngại khó, ngại khổ, thầy Phong cùng giáo viên đã đi được một bước dài là xóa “điểm trắng” về giáo dục mầm non ở Trung Phìn. Không những vậy, các thầy cô còn hoàn thành phổ cập tiểu học đúng độ tuổi rồi đưa các em xuống núi, theo học tiếp THCS (lớp bán trú dân nuôi) tại Trường THCS xã Sinh Long.

Chia tay Trung Phìn, tôi nhận được cái bắt tay thật chặt của thầy Phong. Nhìn điểm trường vẫn được “gia cố” bằng tranh tre, nứa lá, tôi biết, giáo viên và học sinh nơi đây vẫn còn quá nhiều khó khăn. Nhưng trăn trở nhất của thầy vẫn là chế độ cho 2 giáo viên của trường. “Họ vẫn là giáo viên hợp đồng, thiệt thòi nhiều lắm, chỉ mong sao sớm có chỉ tiêu vào biên chế để các giáo viên này yên tâm ở lại gieo cái chữ cho đồng bào”, câu nói của thầy Phong lọt thỏm giữa núi đồi trập trùng.

Theo Đông Xuyên - Thùy Như
Lao Động