Bài 7:

Vụ bỗng dưng kê biên nhà dân đang ở 18 năm: Nhận diện một quyết định trái pháp luật!

(Dân trí) - Liên quan đến việc thi hành án đối với căn nhà số 10 Kim Mã (nay là nhà số 194 Kim Mã), là người được thi hành án và đã mua tài sản từ chính cơ quan thi hành án, nhưng sau gần hai thập kỷ quản lý, sử dụng nhà đất đã mua hợp pháp này, ông Mai Công Ích bỗng nhiên nhận được lệnh của cơ quan thi hành án buộc ông phải giao lại nhà đất số 10 Kim Mã để tổ chức lại việc thi hành án dù những người được thi hành án trong vụ việc này không hề có yêu cầu.

Trước đó, ngày 05/4/2007, Trưởng THADS quận Ba Đình đã có Quyết định số 602.1/THA ngày 05/4/2007 về việc hủy bỏ kết quả giải quyết tại Biên bản giải quyết ngày 16/01/1999 của Chấp hành viên THADS quận Ba Đình.

Câu hỏi đặt ra là vậy việc hủy bỏ kết quả giải quyết ngày 16/01/1999 của Trưởng THADS quận Ba Đình có đúng với quy định của pháp luật hay không?

PV Dân trí đã có cuộc trao đổi với luật sư Nguyễn Đào Tơ - Công ty Luật TNHH Đông Hà Nội (Đoàn luật sư TP Hà Nội). Luật sư Tơ cho rằng cơ quan Thi hành án quận Ba Đình hoàn toàn không có thẩm quyền làm việc này, bởi các lý do sau:

Thứ nhất, Biên bản giải quyết thi hành án ngày 16/01/1999 của các đương sự là thỏa thuận hợp pháp do vậy không có căn cứ để hủy thỏa thuận này:

Pháp luật thi hành án qua các thời kỳ đều tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên trong quá trình thi hành án. Căn cứ theo quy định tại khoản 2, 3 Điều 8 Nghị định số 69/CP ngày 18/10/1993 về thủ tục thi hành án dân sự thì sau khi nhận được quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu của người được thi hành án, chấp hành viên định cho người phải thi hành án thời hạn không quá ba mươi ngày để tự nguyện thi hành. Nếu hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành, thì chấp hành viên ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án.

Vụ bỗng dưng kê biên nhà dân đang ở 18 năm: Nhận diện một quyết định trái pháp luật! - 1

Việc nộp tiền vào Chi cục Thi hành án quận Ba Đình của ông Ích còn nguyên biên lai đóng dấu đỏ từ năm 1999.

Việc nộp tiền vào Chi cục Thi hành án quận Ba Đình của ông Ích còn nguyên biên lai đóng dấu đỏ từ năm 1999.

Ở đây, sau khi có đơn yêu cầu của bà Oanh và Quyết định thi hành án (tháng 5/1998), trong khi cơ quan thi hành án chưa có quyết định cưỡng chế thi hành án thì bà Lâm đã cùng thỏa thuận với ông Ích và bà Oanh dưới sự chứng kiến và xác nhận của Chấp hành viên để bán tài sản để chủ động thanh toán cho những người được thi hành án. Điều này là hoàn toàn phù hợp với các quy định của pháp luật. Mặc dù các chủ thể còn lại (những người được thi hành án nhưng không có đơn yêu cầu thi hành án) không tham gia thỏa thuận nhưng họ cũng không phản đổi việc thỏa thuận. Vì vậy, thỏa thuận này cũng không trái đạo đức xã hội, không xâm phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp của ai.

Bên cạnh đó, toàn bộ số tiền thu hồi được từ việc thoả thuận chuyển nhượng nhà đất nêu trên đều được ông Ích nộp vào cơ quan Thi hành án, và ngay lập tức cơ quan này đã sử dụng số tiền của ông Ích nộp để thanh toán cho bà Oanh (người được thi hành án theo bản án số 50), bà Việt (người được thi hành án theo Quyết định số 12) và những người khác có liên quan. Như vậy, hai đương sự trong Bản án, Quyết định có nội dung nhắc tới việc xử lý nhà 194 Kim Mã để đảm bảo thi hành án là bà Oanh, bà Việt đều đã được nhận lại tiền từ cơ quan thi hành án và không có ý kiến gì khác, do vậy việc thanh toán tiền cho họ đã đủ hay còn thiếu nhưng họ không có ý kiến gì khác thì đương nhiên đó là quyền của bà Oanh, bà Việt. Điều này thể hiện đây không phải là một thoả thuận bất hợp pháp nhằm giúp bà Lâm trốn tránh nghĩa vụ của mình. Đến nay, sau gần hai thập kỷ ông Ích cũng chưa bao giờ nhận lại số tiền này từ cơ quan thi hành án. Vậy thoả thuận này cần được tôn trọng theo đúng tinh thần của bộ luật gốc là Bộ luật Dân sự và theo đúng tinh thần của pháp luật về thi hành án dân sự cả tất cả các thời kỳ.

Trong nội dung quyết định về việc hủy biên bản thỏa Biên bản giải quyết thi hành án xác định lý do ban hành Quyết định là có sai phạm về xử lý tiền thu được từ bán nhà đất tại số 194 Kim Mã. Điều này cho thấy rằng việc thỏa thuận giữa ông Ích, bà Lâm và bà Oanh là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật vì chỉ có việc “xử lý tiền” tức là hoạt động sau khi có thỏa thuận mới có sai phạm (nếu thực sự có sai phạm). Vậy sai phạm này trong việc xử lý tiền sau này là sai phạm của chấp hành viên và không làm mất đi hiệu lực của Biên bản giải quyết thi hành án ngày 16/01/1999.

Bên cạnh đó, xét tại thời điểm Trưởng THADS quận Ba Đình ban hành Quyết định số 602.1/THA ngày 05/4/2007 đánh giá về Biên bản giải quyết thi hành án ngày 16/01/1999, pháp luật về thi hành án dân sự cũng đã khẳng định về nguyên tắc thỏa thuận thi hành án: “Người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thoả thuận với nhau về thời gian, địa điểm, phương thức thi hành án, nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”

Vậy việc thỏa thuận mua bán tài sản tại Biên bản giải quyết thi hành án ngày 16/01/1999 giữa bà Lâm, bà Oanh và ông Ích hoàn toàn không trái quy định pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Do vậy, việc hủy Biên bản giải quyết thi hành án là hoàn toàn không có căn cứ.

Thứ hai, Trưởng THADS quận Ba Đình không có thẩm quyền hủy bỏ Biên bản thỏa thuận ngày 16/01/1999:

Căn cứ theo quy định tại Điều 16 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì nhiệm vụ, quyền hạn của thủ trưởng cơ quan thi hành án đó là: Ra quyết định về thi hành án; Phân công Chấp hành viên thực hiện việc thi hành án; Hướng dẫn nghiệp vụ, chỉ đạo, kiểm tra công tác thi hành án đối với Chấp hành viên hoặc Cơ quan thi hành án cấp dưới theo quy định của pháp luật; Đề nghị cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân phối hợp tổ chức thi hành án;… Như vậy, theo quy định tại điều này thì thủ trưởng cơ quan thi hành án không được quyền “Hủy kết quả giải quyết thi hành án” hoặc “hủy Biên bản/tài liệu về thi hành án”.

Vụ bỗng dưng kê biên nhà dân đang ở 18 năm: Nhận diện một quyết định trái pháp luật! - 3

Hai quyết định thi hành án theo yêu cầu được Cục thi hành án TP Hà Nội ban hành sau 10 năm khi người dân đã nộp tiền vào cơ quan thi hành án, xây nhà và sinh sống ổn định.

Hai quyết định thi hành án theo yêu cầu được Cục thi hành án TP Hà Nội ban hành sau 10 năm khi người dân đã nộp tiền vào cơ quan thi hành án, xây nhà và sinh sống ổn định.

Thực chất theo quy định của Bộ luật dân sự thì việc thỏa thuận giữa người được thi hành án và người phải thi hành án là một giao dịch dân sự. Do đó, việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, tuyên bố hủy bỏ giao dịch dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án. Điều này cũng có nghĩa là nếu bà Lâm hoặc những người có liên quan cho rằng việc mua bán này là không đúng quy định, ảnh hưởng đến quyền lợi của họ thì có thể khởi kiện ra Tòa để giải quyết, còn cơ quan thi hành án dân sự không có quyền hủy bỏ Biên bản giải quyết thi hành án được lập giữa các đương sự với nhau, dưới sự chứng kiến của Chấp hành viên, thoả thuận về một giao dịch dân sự (chính là biên bản thỏa thuận về việc mua bán này).

Theo quy định tại khoản 3 Điều 37 Luật THADS 2008 về việc hủy bỏ quyết định về việc thi hành án cũng đã xác định rõ:

“3. Người có thẩm quyền ra quyết định về thi hành án, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có quyền ra quyết định huỷ hoặc yêu cầu huỷ quyết định về thi hành án của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp dưới, Chấp hành viên thuộc quyền quản lý trực tiếp trong các trường hợp sau đây:

a) Phát hiện các trường hợp quy định tại các khoản 1 và khoản 2 Điều này mà Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp dưới, Chấp hành viên thuộc quyền quản lý trực tiếp không tự khắc phục sau khi có yêu cầu;

b) Quyết định về thi hành án có vi phạm pháp luật theo kết luận của cơ quan có thẩm quyền.”.


Tổng cục Thi hành án yêu cầu làm rõ vụ mua đất làm nhà ở 18 năm vẫn bị kê biên bán đấu giá

Tổng cục Thi hành án yêu cầu làm rõ vụ mua đất làm nhà ở 18 năm vẫn bị kê biên bán đấu giá

Xét ở đây, kể từ khi có Biên bản giải quyết thi hành án cho tới khi có Quyết định số số 602.1/THA ngày 05/4/2007 về việc hủy bỏ kết quả giải quyết tại Biên bản giải quyết ngày 16/01/1999 và quá trình thi hành án sau này không có bất cứ văn bản nào của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kết luận quyết định về thi hành án, Biên bản giải quyết thi hành án có vi phạm pháp luật mà chỉ có Công văn số 303-KSTHA trong đó xác định: “Việc thi hành án quận Ba Đình thực hiện không đúng nội dung quyết định Bản án, vi phạm trình tự thủ tục thi hành án.”. Đây là công văn hành chính trao đổi về vụ việc giữa Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình và cơ quan thi hành án, không phải quyết định của cơ quan có thẩm quyền xác định có sai phạm về việc thi hành án, càng không phải là kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình. Do đó, không có căn cứ để khẳng định Trưởng THADS quận Ba Đình có thẩm quyền trong việc hủy Biên bản giải quyết thi hành án ngày 16/01/1999.

Vậy có thể khẳng định rằng, việc Trưởng THADS quận Ba Đình ra Quyết định số 602.1/THA ngày 05/4/2007 về việc hủy bỏ kết quả giải quyết tại Biên bản giải quyết ngày 16/01/1999 là hoàn toàn trái với quy định của pháp luật.

Rõ ràng, theo các quy định pháp luật tại thời điểm có Quyết định về việc hủy bỏ Biên bản giải quyết thi hành án và trong giai đoạn thi hành án lại sau này không có bất cứ căn cứ nào cho phép Trưởng THADS quận Ba Đình được quyền hủy bỏ kết quả thỏa thuận ngày 16/01/1999.

“Tuy nhiên, Trưởng THADS quận Ba Đình vẫn ban hành quyết định hủy bỏ Biên bản thỏa thuận ngày 16/01/1999 là trái với quy định của pháp luật. Cục thi hành án dân sự TP Hà Nội có cần thiết phải lật lại vụ việc khi mà các bên đương sự không hề có tranh chấp với nhau, không có bất cứ khiếu nại, khiếu kiện nào về việc thi hành án và ba trong số các đương sự đã mất? Việc hủy bỏ Biên bản giải quyết thi hành án năm 1999 để thi hành án cho ai và nhằm mục đích gì, ai là người được lợi từ việc tổ chức bán đấu giá và thi hành án lại này? Đây là những vấn đề mà các cơ quan chức năng cần xem xét, đánh giá lại để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho gia đình ông Ích và các bên có liên quan đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân vào bộ máy nhà nước”, luật sư Tơ phân tích.

Xin cảm ơn luật sư.

Dân trí sẽ tiếp tục thông tin sự việc đến bạn đọc!

Anh Thế - Hà Thảo (thực hiện)