Trà Vinh:
UBND xã “làm khó” người dân: Cần một quyết định thấu tình đạt lý
(Dân trí) - Năm 1989, UBND xã An Phú Tân có quyết định (QĐ) giữa ông Sáu và ông Hòa chia nhau sử dụng 1/2 cái mương, không ai khiếu nại. 22 năm sau, UBND xã này có QĐ thu hồi. Ông Sáu kiện ra tòa nhưng đều bị bác đơn với nhiều lý do thiếu thuyết phục.
Theo đơn trình bày của ông Phạm Văn Sáu (SN 1952, ngụ ấp Dinh An, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh): Vào năm 1986, giữa ông Sáu và ông Nguyễn Văn Hòa (đã mất vào năm 1997) có tranh chấp với nhau ranh đất con mương tại ấp An Trại, xã An Phú Tân. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, ông Sáu và ông Hòa đã tự thỏa thuận hòa giải thành.
Đến ngày 19/6/1989, UBND xã An Phú Tân có quyết định về việc kết luận cuộc hòa giải tranh chấp mương đất giữa ông Sáu và ông Hòa. Theo quyết định số 14/QĐ-UBX.89 (QĐ14) thì ông Sáu và ông Hòa mỗi người chia nhau 1/2 cái mương để sử dụng. Tiếp sau đó, ngày 31/8/1989, UBND huyện Cầu Kè có công văn số 57/CV-UBH yêu cầu hai bên thực hiện theo QĐ14 của UBND xã An Phú Tân. Từ đó đến năm 2006, hai bên không ai có tranh chấp hay khiếu nại gì.
Sau khi ông Hòa mất vào năm 1997, phần đất của ông Hòa chuyển lại cho con là ông Nguyễn Văn Út sử dụng. Đến năm 2006, gia đình ông Hòa tiếp tục phát sinh tranh chấp cũng là con mương này.
Gia đình ông Phạm Văn Sáu kiện gia đình ông Hòa ra tòa. Qua nhiều lần xét xử từ năm 2006 đến 2010 với cả sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm nhưng vụ án “Tranh chấp ranh đất” vẫn không được giải quyết dứt điểm. Do đó, ngày 2/4/2010, TAND huyện Cầu Kè có quyết định đình chỉ vụ án do phía ông Sáu chỉ yêu cầu thực hiện đóng ranh đất đúng theo đúng QĐ14 của UBND xã An Phú Tân.
Tưởng sự việc sẽ dừng lại đây nhưng đến ngày 14/2/2011, bỗng dưng UBND xã An Phú Tân có Quyết định số 32/QĐ-UBND (QĐ32) về việc thu hồi QĐ14 do chính xã này ban ra. Nhận thấy QĐ32 của UBND xã An Phú Tân gây thiệt thòi cho mình, ông Phạm Văn Sáu kiện UBND xã An Phú Tân ra tòa.
Qua phiên tòa sơ thẩm ngày 10/4/2012 của TAND huyện Cầu Kè và phiên tòa phúc thẩm ngày 23/8/2012 của TAND tỉnh Trà Vinh về vụ “Khiếu kiện quyết định hành chính”, cả hai phiên tòa đều bác yêu cầu của ông Sáu đòi hủy QĐ32.
Qua trình bày của ông Sáu, những lý do mà tòa sơ thẩm và phúc thẩm đưa ra đều thiếu sự thuyết phục, gây bất lợi cho gia đình ông. Do đó, ngày 25/9/2012, ông Sáu có đơn kháng nghị giám đốc thẩm.
Theo bản án của tòa sơ thẩm và phúc thẩm, phía luật sư của ông Sáu cho rằng, QĐ14 là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. QĐ14 là QĐ hành chính có hiệu lực và có tính bắt buộc thi hành, không cơ quan, tổ chức nào có thẩm quyền bác bỏ vấn đề trên.
Trong khi đó, HĐXX cũng cho rằng, theo quy định tại khoản 7 Điều 9, khoản 1 Điều 21 Luật Đất đai năm 1987 và khoản 1 Điều 15 Nghị định số 30-HĐBT ngày 23/3/1989 thì UBND xã có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai giữa cá nhân với nhau. Tranh chấp giữa ông Sáu và ông Hòa phát sinh năm 1989 nên UBND xã ban hành QĐ14 là có căn cứ pháp luật.
Tuy nhiên, phía bị kiện là UBND xã An Phú Tân, người đại diện là ông Nguyễn Minh Kỳ- Chủ tịch UBND xã cũng là người ký QĐ32, tại tòa ông Kỳ cho rằng, UBND xã ban hành QĐ32 để thu hồi QĐ14 là có căn cứ. Theo ông Kỳ, QĐ14 không có tính khả thi để thi hành: không nêu rõ thửa đất số mấy, diện tích đất tranh chấp bao nhiêu m2, tứ cận thế nào…; Việc ban hành và tống đạt QĐ14 chưa đúng theo trình tự do không có tống đạt QĐ cho hộ ông Nguyễn Văn Hòa; Năm 1991, huyện Cầu Kè đo đạc kê khai đăng ký quyền sử dụng đất, do hộ ông Sáu sử dụng ổn định, không có tranh chấp nên ngày 21/11/1995, UBND huyện đã cấp giấy CNQSDĐ cho ông Sáu nên QĐ14 không còn hiệu lực.
Những lý do mà ông Chủ tịch UBND xã Nguyễn Minh Kỳ đưa ra tại tòa đều được tòa án chấp nhận. Tuy nhiên, theo nhận định của nhiều người trong cuộc những lý do này rất thiếu thuyết phục. Cụ thể, theo ông Trần Văn Vọng- nguyên Chủ tịch UBND huyện Cầu Kè (người chỉ đạo vụ việc tranh chấp vào thời điểm đó) thì thời điểm từ năm 1989 trở về trước, đơn vị tính cho đất đai nông nghiệp (ở Nam Bộ) là tính bằng công và cũng chưa có bản đồ thửa đất. Hơn nữa, ông Sáu và ông Hòa không phải tranh chấp diện tích đất mà là vị trí ranh đất nên các vấn đề biện bạch như thửa đất, tứ cạnh, diện tích của ông Chủ tịch xã là thiếu khách quan, thiếu căn cứ.
Còn theo ông Phạm Văn Sáu, khi QĐ14 được ban hành, cả ông và ông Hòa đều nhận được. Chứng thực là theo các tờ xác nhận của ông Nguyễn Hồng Tư (nguyên Trưởng ban Tư pháp xã An Phú Tân) và ông Nguyễn Văn Dũng (Trưởng Ban nhân dân ấp An Trại, cùng công tác vào thời điểm có QĐ14) đều cho biết cả hai ông Sáu và ông Hòa đã nhận được và thực hiện theo đúng QĐ14. Tuy nhiên, các phiên tòa đã lờ đi những xác nhận này.
Một điều điều đặc biệt và khó hiểu ở đây nữa là theo ông Sáu trình bày cho biết, sở dĩ UBND xã An Phú Tân thu hồi QĐ14 là vì UBND xã " căn cứ thông báo trong một cuộc họp nội bộ do ông Nguyễn Thế Ngoan- Phó Chủ tịch UBND huyện Cầu Kè với nội dung: Giao Chủ tịch UBND xã An Phú Tân ra quyết định thu hồi QĐ14 ". Ông Sáu cho rằng, ý kiến chỉ đạo của Phó Chủ tịch UBND huyện là không có cơ sở, thiếu tính khách quan và không dân chủ. Bởi sau khi tòa án có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ vụ án giữa ông Sáu và gia đình ông Hòa thì ông Sáu có quyền yêu cầu UBND xã An Phú Tân nhanh chóng tổ chức thi hành QĐ14 bằng hình thức tiến hành cắm ranh mốc giới theo QĐ này.
Ngoài ra, tại biên bản trao đổi để giải quyết tranh chấp ranh đất ngày 21/12/2010 giữa hai bên, thì các thành viên tham gia có ý kiến là sẽ không xem xét giải quyết nếu như gia đình ông Sáu có yêu cầu thực hiện theo QĐ14.
Theo ông Sáu, hiện 1/2 cái mương của hai bên vẫn được sử dụng, do vậy, UBND xã cho thu hồi QĐ14 để làm gì. Việc thu hồi QĐ14 sẽ gây ra hậu quả khó lường trong việc tranh chấp giữa hai bên. Bởi khi ông Hòa còn sống thì không có chuyện gì xảy ra nhưng khi ông Hòa chết đi, các con ông tiếp tục tranh chấp thì như thế đã đi ngược lại ý của người đã khuất. Ông Sáu cũng đặt mối nghi rằng, nếu QĐ14 bị thu hồi thì nhiều khả năng gia đình ông Hòa sẽ chiếm đất của ông.
Bản thân ông Trần Văn Vọng- nguyên Chủ tịch UBND huyện Cầu Kè cũng cho rằng, nếu như QĐ14 thời hiện không còn hiệu lực thi hành thì QĐ này vẫn là cơ sở chứng cứ để để giải quyết tranh chấp hiện nay.
Theo chúng tôi, nếu công bằng và khách quan thì UBND xã An Phú Tân phải giải thích cho các con ông Hòa biết là 1/2 cái mương nêu trên đã được giải quyết rồi nên bây giờ không thể giải quyết tiếp nữa. Kết quả của sự tranh chấp vào năm 1989 là hai bên tự giải quyết, thỏa thuận với nhau chứ không phải do phía cơ quan nhà nước áp dụng quy định của pháp luật đất đai để giải quyết. “Đằng này UBND xã không làm vậy mà lại ban hành QĐ32 thu hồi QĐ14 sau hơn 22 năm, đây là một việc làm rất đau lòng”, ông Sáu bày tỏ chính kiến.
Trao đổi với PV Dân trí, Luật sư Nguyễn Thị Thanh Tân (Trưởng VP Luật sư Thanh Tân, Đoàn Luật sư TP.Cần Thơ) cho rằng, UBND xã An Phú Tân ra QĐ32 để thu hồi QĐ14 là không có căn cứ pháp lý. Theo Luật sư Thanh Tân, nếu như UBND xã muốn thu hồi QĐ cũ thì cần phải có lý do rõ ràng cụ thể chứ không thể viện dẫn những lý do chung chung. Một quyết định hành chính do chính quyền địa phương ban hành đã có hiệu lực hơn 20 năm nay thì không thể dễ dàng bị thu hồi, như thế khác nào làm cho vụ tranh chấp tiếp tục quay vòng lại như hồi hàng chục năm về trước.
Qua vụ việc này cho thấy phần nào đó UBND xã An Phú Tân đã vô tình "làm khó" người dân. Do đó, vụ việc đang chờ một quyết định giám đốc thẩm của cơ quan Trung ương để có sự “thấu tình đạt lý”.
Huỳnh Hải