Khúc hát đêm xuân

PV

(Dân trí) - Mặt trời đã lên nhưng trời vẫn lạnh buốt. Một ít gió cũng lạnh buốt.

Giờ đang là mùa xuân. Người Mông sắp ăn tết tháng Hai, một cái tết đặc biệt quan trọng - quan trọng hơn cả tết Nguyên Đán. Thực chất đó là tết cúng rừng.

Trong mỗi dòng họ, ông trưởng họ sẽ xem chân gà và quyết định xem cả đại gia đình sẽ phải kiêng cữ mấy ngày. Nếu cái chân gà không mang đến may mắn thì thời gian kiêng cữ sẽ dài hơn và ngược lại. Nhưng ít nhất thì cũng vài ba ngày.

Những ngày đó người ta không làm gì hết, đặc biệt không động đến nông cụ, không động vào rừng cũng không động vào đất đai. Người lớn trẻ con đều chỉ chơi không, nấu ăn, uống rượu. Người Mông coi trọng rừng nên mỗi năm phải làm một cái lễ to để tạ ơn. Dù thực tế thì ở đây rừng nguyên sinh hầu như chẳng còn.

Khúc hát đêm xuân - 1

Điệu khèn Mông lay động núi rừng (Ảnh: Nguyễn Duy).

Mấy bà Mông ngồi túm tụm trên một khoảnh đất bằng phẳng ngay ven đường, ai ai cũng váy áo xúng xính. Tết mà. Phải mặc những bộ trang phục đẹp nhất. Mấy đứa trẻ con chạy nhảy bên cạnh. Mỗi bà một cái giỏ đựng đồ thêu. Đã bao lần về miền núi, hiếm khi tôi thấy các bà Mông thảnh thơi như thế, ngồi thêu thổ cẩm lên những miếng vải dài để rồi lại may một cách vô cùng khéo léo vào những váy những áo rực rỡ.

Phụ nữ Mông lúc còn trẻ thì mảnh dẻ, về già hầu như ai cũng phốp pháp. Nhiều người hút thuốc lào, uống rượu như đàn ông. Họ khỏe mạnh và bao bọc gia đình của mình như một cái tán cây to cứ xòe mãi xòe mãi ra. Bà hàng xóm của gia đình thời tôi còn bé thơ, bà ấy tên May, cũng phốp pháp như thế, nụ cười hồn hậu, giọng nói lanh lảnh đặc trưng, một chiếc răng vàng ở hàm trên.

Mỗi khi bà cười chiếc răng lại bắt sáng lấp lánh. Các bà đã phốp pháp lại mặc những bộ váy áo dày. Bộ trang phục của phụ nữ Mông nói chung rất nhiều tầng lớp. Bên trong có váy lót xếp ly, bên ngoài có váy trùm, lại còn có tạp dề. Trên thì mặc áo cánh, bên ngoài có áo khoác lửng. Chân quấn xà cạp, đi giày vải. Mỗi khi các bà bước đi tấm váy nặng nề lại lắc lư đu đưa.

Bà May hàng xóm thỉnh thoảng mang rá sang nhà tôi vay gạo. Nhà bà đông con, 5-6 đứa lít nhít. Lúc nào bà cũng quần quật làm việc, đứa địu sau lưng, đứa bế bên sườn, đứa nữa ôm chân khóc nhì nhằng. Thỉnh thoảng trên quê có đám cưới hay hội hè gì đó bà lại diện bộ váy áo mới tinh, rực rỡ như một cô gái, bắt xe khách ngược lên vùng cao.

Mỗi lần bà diện như thế, cả xóm lại xôn xao lên. Đến giờ tôi vẫn chẳng hiểu tại sao cả ngôi làng toàn người Tày, lẫn một ít người Kinh dưới xuôi lên khai hoang, lại lọt vào đúng một gia đình người Mông là gia đình bà May.

Giờ thì bà May đã mất. Nhưng đi khắp các vùng Mông, nhìn đâu tôi cũng thấy những bà Mông lớn tuổi rất giống bà. Những nụ cười lấp lánh răng vàng, những bàn tay xù xì thô nhám đầy vết sẹo và nhựa cây lại vô cùng khéo léo dệt vải, thêu thùa may vá. Thanh xuân của họ đã để lại đâu đó trên suốt chặng đường dài mấy chục năm trời, san sẻ sang cho những đứa con và đàn cháu. Thực ra, mọi bà mẹ trên đất nước của chúng ta đều như thế, chẳng riêng gì các bà mẹ Mông.

Khúc hát đêm xuân - 2

Những cô gái Mông trong trang phục rực rõ đón xuân sớm (Ảnh: Nguyễn Duy).

Bọn tôi được bí thư thôn mời cơm tối. Đấy là một thôn nằm cách thị trấn hơn 20 cây số. Trong đó có một điểm trường có hai lớp ghép. Buổi chiều vào muộn, lũ trẻ con vẫn chưa chịu về nhà, nhất định ở lớp chờ nhận quà. Phát quà xong thì tôi đi một vòng.

Ngay đầu hồi lớp học có một cây gạo to tới nỗi phải ngửa hẳn cổ lên mới cảm giác được cái tán khổng lồ của nó. Ở những nơi vừa cao vừa xa vừa heo hút như thế này, cứ thỉnh thoảng lại mọc lên một thứ gì đó như cách thiên nhiên đánh dấu cho người đi xa biết đường mà tìm về. Như là cây gạo này, lúc rẽ từ ngã ba từ trung tâm xã vào, cách đây chừng bảy - tám cây số tôi đã nhìn thấy nó. Thấy cái ngọn cao ngất, vượt lên trên tất cả những rìa núi răng cưa lô nhô, chĩa lên nền trời màu cam chín lúc hoàng hôn sắp tắt. Mai kia, chẳng mấy chốc nữa đến mùa hoa nở, cây gạo sẽ đỏ rực như một ngọn đuốc trên nền núi đá màu ghi xám.

Thôn này chỉ có vài chục hộ gia đình, thuần Mông. Nhưng như nhiều thôn xóm khác, những người trẻ khỏe đều bỏ quê đi làm xa. Ở thôn chỉ còn người già và trẻ nhỏ. Để giữ chân những người trẻ tuổi, xã, huyện phải dùng một cách khác biệt: Là mạnh dạn bổ nhiệm cán bộ trẻ. Bí thư thôn này còn chưa đến ba mươi tuổi. Cũng chẳng được bao nhiêu nhưng dù sao cũng còn hơn là cả thôn chẳng tìm ra một thanh niên nào. Đến mức có đám tang mà toàn người già đi khiêng nhau.

Nhưng người trẻ đi làm ăn xa thì kinh tế lại khấm khá lên. Đi cả năm, tết mới về, dành dụm được tiền sửa cho bố mẹ cái nhà, mua được cái tivi, xe máy. Trẻ con cũng có quần áo ấm để mặc. Trong cái mất có cái được và ngược lại. Các ông bố bà mẹ trẻ đi làm thuê mà không biết chữ cũng nhận ra việc học quan trọng thế nào, thế là tự dưng các cô giáo cũng đỡ hẳn một việc là cứ trước giờ học thì đi từng nhà cõng trẻ con đến lớp.

Bữa cơm ở nhà bí thư thôn có đủ món địa phương. Gà đen luộc chấm muối ớt, cá nướng, canh đậu tương xay, măng xào và một chõ mèn mén còn đang bốc khói. Dù đời sống còn khó khăn hay đã khấm khá hơn, người Mông vẫn không bỏ ăn mèn mén. Không quen thì đó là một món rất khó ăn, khô, khó nuốt, lúc nào cũng phải có canh mới nuốt được. Nhưng mèn mén chắc bụng. Ăn một bát mèn mén vào buổi sáng, yên tâm lên nương làm đến trưa.

Tôi đã trở đi trở lại vùng đất này không biết bao nhiêu lần. Mỗi lần lại thấy thôn xóm đổi thay một chút. Những con đường rộng ra, những nhà cửa mọc lên, những đêm tối đã lấp ló ánh điện. Dù bà con tiết kiệm lắm, cả nhà chỉ có một bóng điện nhỏ treo trên trần, nhưng thế cũng tốt lắm rồi. So với thời thắp đèn dầu thì bây giờ như đang ở trong một giấc mơ.

Xưa tôi đi vào đây, đường ô tô chưa có. Sáng tinh mơ, tôi đi bộ dọc theo đường mòn về phía biên giới. Là đường biên giữa hai quốc gia. Con đường ấy chỉ rộng chừng năm mươi centimet. Bên trái là đất ta, bên phải là đất họ. Tức là tôi chỉ nhấc chân một cái là đã có thể ở trên lãnh thổ của nước láng giềng. Những bông hoa gì giống như thủy tiên, tím thẫm, nở rộ trong ánh sáng mờ ảo đầu ngày, khi những hạt mưa li ti vẫn lất phất rơi không ngừng từ đêm. Từ trạm biên phòng cửa khẩu, một anh lính đang dùng ống nhòm để dõi theo tôi. Phía trước tôi có một cặp vợ chồng gùi đầy nông sản. Đó là ngày chợ phiên bên kia. Chỉ đi qua một cái cửa khẩu y như cửa hàng rào hàng xóm là có thể đi chợ, bán nông sản, mua đồ dùng sinh hoạt, quá trưa thì quay về. Tôi đứng giữa hai dải hoa tím miên man ấy, một điều gì đó thật là ấm áp dễ chịu, một niềm thương mến đất đai, núi đồi, sương gió dâng lên thật đầy.

Đôi khi nhìn bản đồ Tổ quốc tôi nghĩ, thật kì lạ, khi trên dải đất này lại có những vùng không gian quá khác biệt với nhau. Khác biệt nhưng không xa lạ, dù mấy bà Mông gắp thức ăn vào bát cho tôi không nói được một câu tiếng Kinh nào, vẫn dấy lên một nỗi gì thật là ấm áp.

Đêm đang xuống, thôn làng như bị dìm trong cái lạnh sâu hơn. Những cánh cửa đóng kín, thảng hoặc một thiếu nữ từ nhà nào đó lại khẽ cất lên một khúc hát trong đêm xuân yên tĩnh, nghe như tiếng những mầm cây cựa mình.

Đỗ Bích Thúy