Chủ tịch xã, trưởng thôn bán đất trái thẩm quyền và những hệ lụy pháp lý
(Dân trí) - Câu chuyện 10, 20 năm trước người đứng đầu điểm dân cư hay chủ tịch xã bán đất cho các hộ gia đình, cá nhân để làm đất giãn dân, lấp ao hồ,… là chuyện "bình thường".
Tuy nhiên, khi người mua sử dụng và xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì nhiều chuyện bất thường mới xảy đến, họ như người "ngụ cư trái phép" ngay trên chính mảnh đất đã bỏ tiền ra mua.
Luật sư Quách Thành Lực, giám đốc Công ty luật Pháp trị, Đoàn luật sư TP Hà Nội đã đưa ra những góc nhìn pháp lý về việc chủ tịch xã, trưởng thôn bán đất không đúng thẩm quyền và những hệ lụy đối với người giao đất và người dân mua đất trái thẩm quyền.
Theo luật sư Lực, việc xử lý hậu quả đối với đất được giao trái thẩm quyền được xử lý phụ thuộc vào từng thời điểm giao đất phân ra làm 4 thời kỳ.
Thời kỳ 1: Đất đã được giao và sử dụng ổn định trước ngày 15/10/1993
Khoản 2 Điều 23 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định: "Trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền đã được sử dụng ổn định trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch thì người đang sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với diện tích đất đã được giao theo quy định tại khoản 1 Điều 20 của Nghị định này".
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 20 của Nghị định 43/2014/NĐ-CP, người dân sẽ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với mục đích đất ở bằng hạn mức công nhận đất ở theo quy định của từng tỉnh, thành phố.
Thời kỳ 2: Đất đã được giao và sử dụng ổn định từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2004
Khoản 3 Điều 23 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định: "3. Trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền đã được sử dụng ổn định từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2014, không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định tại Khoản 2 Điều 20 của Nghị định này".
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 20 của Nghị định 43/2014/NĐ-CP, người dân sẽ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với mục đích đất ở bằng hạn mức giao đất ở theo quy định của từng tỉnh.
Hạn mức giao đất ở luôn ít hơn hạn mức công nhận đất ở theo quy định của từng tỉnh, thành phố.
Thời kỳ 3: Đất được giao và sử dụng ổn định từ ngày 01/7/2004 đến trước ngày 01/7/2014
Khoản 2 Điều 18 Thông tư 02/2015/TT-BTNMT quy định:
"5. Việc cấp Giấy chứng nhận đối với trường hợp được giao đất không đúng thẩm quyền từ ngày 01 tháng 7 năm 2004 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 theo quy định tại Điều 23 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP được thực hiện như sau:
a) Làm rõ và xử lý trách nhiệm đối với người giao đất không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật;b) Xem xét, quyết định đối với từng trường hợp cụ thể và chỉ cấp Giấy chứng nhận đối với trường hợp đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn, quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; trường hợp giao đất làm nhà ở thì chỉ cấp Giấy chứng nhận đối với hộ gia đình, cá nhân không có đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở được giao không đúng thẩm quyền."
Theo quy định này, cán bộ giao đất trái thẩm quyền phải bị xử lý trước thì người dân mới được cấp sổ đỏ.
Thời kỳ 4: Đất đã được giao trái thẩm quyền từ ngày 01/7/2014 đến nay
Khoản 5 Điều 23 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định: "Nhà nước không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và thu hồi toàn bộ diện tích đất đã giao, cho thuê không đúng thẩm quyền kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2014 trở về sau".
Như vậy tùy từng thời điểm đất được giao trái thẩm quyền, tùy tình trạng người dân còn giữ được phiếu thu tiền hay không, mức thu tiền trong phiếu thu là bao nhiêu để cơ quan chức năng có căn cứ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xác định số tiền sử dụng đất phải nộp theo quy định.
Đối với cán bộ, công chức giao đất trái thẩm quyền từ ngày 01 tháng 7 năm 2004 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 thì hiện nay phải bị xem xét làm rõ và xử lý trách nhiệm sau đó mới tiến hành việc cấp giấy chứng nhận cho người dân. Người giao đất trái thẩm quyền hiện nay ở nhiều địa phương thường bị xử lý về tội Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ theo quy định tại điều 356 Bộ luật hình sự năm 2015 với mức án cao nhất lên tới 15 năm tù.