3 phút cùng luật sư:

Bị đối thủ cạnh tranh vu khống trên facebook, phải làm sao để tố cáo?

(Dân trí) - Khi facebook ngày càng phổ biến, nhiều người đã sử dụng mạng xã hội để vu khống đối thủ cạnh tranh, người mình ganh ghét nhằm mục đích vụ lợi cá nhân. Vậy người bị vu khống làm sao để ứng phó?

Trong chương trình “Ba phút cùng luật sư” kỳ này, luật sư Nguyễn Đức Chánh - Giám đốc Hãng luật Đức Chánh (DC Counsel), sẽ làm rõ các tình huống pháp lý trên.

Bị đối thủ cạnh tranh vu khống trên facebook, phải làm sao để tố cáo?

Thưa luật sư, vừa qua chương trình có nhận được câu hỏi của bạn đọc như sau: “Doanh nghiệp tôi kinh doanh mỹ phẩm với nhiều nhãn hàng khác nhau. Nhưng vừa qua chúng tôi bị đối thủ chơi xấu, khi liên tục viết bài bình luận trên facebook sai sự thật về sản phẩm của chúng tôi. Khi chúng tôi phản ứng thì họ xóa bài nhưng sau đó lại tiếp tục đăng với những nội dung khác. Chúng tôi muốn lập chứng cứ để khởi kiện thì phải làm gì?”. Mong luật sư giải đáp thắc mắc của bạn đọc.

Chào bạn đọc báo Dân trí!

Có nhiều cách để bạn lập chứng cứ chứng minh trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, với những bằng chứng trên mạng xã hội thì tốt nhất là lập vi bằng để làm bằng chứng.

Theo khoản 1 Điều 2 Nghị định 61/2009/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung 135/2013/NĐ-CP) thì: “Vi bằng là văn bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác”.

Theo Điều 7 Thông tư liên tịch số 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC về giá trị pháp lý của vi bằng thì: "Vi bằng do Thừa phát lại lập là nguồn chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ án và là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp pháp theo quy định của pháp luật.Trong quá trình đánh giá, xem xét giá trị chứng cứ của vi bằng, nếu xét thấy cần thiết, Tòa án, Viện Kiểm sát nhân dân có thể triệu tập Thừa phát lại để làm rõ tính xác thực của vi bằng."

Điều 7 Thông tư liên tịch số 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC quy định: "Vi bằng do Thừa phát lại lập là nguồn chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ án và là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp pháp theo quy định của pháp luật.Trong quá trình đánh giá, xem xét giá trị chứng cứ của vi bằng, nếu xét thấy cần thiết, Tòa án, Viện Kiểm sát nhân dân có thể triệu tập Thừa phát lại để làm rõ tính xác thực của vi bằng."

Theo luật sư Chánh, trước hết người bị vu khống phải lập vi bằng để làm bằng chứng cho hành vi vu khống trên
Theo luật sư Chánh, trước hết người bị vu khống phải lập vi bằng để làm bằng chứng cho hành vi vu khống trên

Hành vi vu khống cá nhân, tổ chức trên mạng xã hội sẽ xử lý như thế nào, thưa luật sư?

Theo điểm g Điều 66 Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 03/11/2013 của Chính phủ thì hành vi “Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác” sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

Nếu tính chất và mức độ của hành vi vu khống là nghiêm trọng, và có đủ căn cứ, thì hành vi này sẽ bị xử lý hình sự theo Điều 122 Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung 2009).

Theo đó, người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm…

Điểm g Điều 66 Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 03/11/2013 quy định: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi “Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác”.

Nếu tính chất và mức độ của hành vi vu khống là nghiêm trọng sẽ bị xử lý hình sự theo Điều 122 Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung 2009).

Hành vi vu khống, xúc phạm người khác, kể cả trên mạng xã hội vẫn có thể bị xử phạt hành chính, thậm chí là xử lý hình sự
Hành vi vu khống, xúc phạm người khác, kể cả trên mạng xã hội vẫn có thể bị xử phạt hành chính, thậm chí là xử lý hình sự

Còn về dân sự thì người bị vu khống có quyền khởi kiện đòi bồi thường không, thưa ông?

Tổ chức/cá nhân bị thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm có quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường theo Điều 592 BLDS 2015. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm: Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại; Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; Thiệt hại khác do luật quy định.

Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho 1 người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá 10 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

Vâng, xin cảm ơn DC Counsel và luật sư Nguyễn Đức Chánh đã hỗ trợ thực hiện chương trình!

Tùng Nguyên - Phạm Nguyễn - Thiên Thanh (thực hiện)