Bài 17: "Viện kiểm sát tỉnh Phú Thọ thực thi pháp luật theo...cảm tính"
(Dân trí) - "Đưa ra quan điểm chính thức khẳng định vụ cưỡng chế thi hành án của Chi cục THA TP Việt Trì với Công ty Việt Hưng là đúng, VKND tỉnh Phú Thọ đã thực thi pháp luật theo...cảm tính, bỏ qua tính quy chuẩn của pháp luật", luật sư Trương Quốc Hòe phân tích.
Sau khi báo điện tử Dân trí đăng tải thông tin về việc VKSND tỉnh Phú Thọ đồng ý với Chi cục THA dân sự TP Việt trì tiến hành cưỡng chế tài sản tại công ty Việt Hưng, ngay cả khi đã có Quyết định kháng nghị Giám đốc thẩm và Quyết định tạm đình chỉ thi hành án, VKSND tỉnh Phú Thọ đã có công văn số 228/VKS-TCCB gửi báo điện tử Dân trí đưa ra quan điểm chính thức về sự việc.
Theo công văn của VKSND tỉnh Phú Thọ:
Thứ nhất, VKSND tỉnh Phú Thọ khẳng định: “Giá trị tài sản thế chấp cũng như giá trị tài sản thẩm định giá để bán đấu giá tài sản chỉ xác định là tài sản xây dựng trên đất chứ không bao gồm giá trị của 300m2 đất mà công ty Việt Hưng đã thuê theo Hợp đồng thuê đất số 431/HĐTĐ ngày 26/8/2005 giữa đại diện Sở tài nguyên và môi trường với công ty TNHH Việt Hưng Phú Thọ”.
Công văn số 228/VKS-TCCB đã viện dẫn Hợp đồng thế chấp tài sản số 08.15.1711/HĐTC giữa Ngân hàng Công thương với công ty Việt Hưng; Biên bản định giá tài sản ngày 21/11/2008 và các Biên bản định giá lại tài sản khác; Hợp đồng thẩm định giá tài sản số 242/HĐ-TĐG/BCV-PT ngày 17/7/2013; Chứng thư thẩm định giá số 245/BCN-HN/CT ngày 15/8/2013 để chứng minh việc Ngân hàng chỉ nhận thế chấp tài sản trên đất chứ không nhận thế chấp Quyền sử dụng 300m2 đất.
Tuy nhiên, như Dân trí đã đưa tin, về vấn đề này Luật sư Trương Quốc Hòe - Trưởng VPLS Interla, Đoàn luật sư TP Hà Nội đã từng phân tích: căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ có trong vụ án, có thể thấy rõ tài sản thế chấp ở đây là Nhà hàng Phù Đổng và Quyền sử dụng 300m2 đất thuê theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: X0223206 do UBND tỉnh Phú Thọ cấp ngày 22/05/2003, cụ thể như sau:
1. Theo quy định tại Điều 1 Hợp đồng thế chấp tài sản số 08.15.1711/HĐTC thì tài sản thế chấp gồm:
“- Nhà Trung tâm thương mại và dịch vụ - Nhà hàng Phù Đổng: Nhà cấp 3, 06 tầng và 01 tầng tum, xây dựng kết cấu bê tông cốt thép. Tổng diện tích xây dựng là 2330,58m2. Nhà được xây dựng trên diện tích đất 300m2.
Địa chỉ tài sản: số 2256 đại lộ Hùng Vương, phường Vân Cơ, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
- Các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản của Bên B:
+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: X0223206 do UBND tỉnh Phú Thọ cấp ngày 22/05/2003
2. Tại phần lời chứng của công chứng viên của Hợp đồng thế chấp có ghi:
“Bên thế chấp mang tài sản thuộc quyền sở hữu của công ty để làm thủ tục đảm bảo cho khoản vay tại Chi nhánh ngân hàng Công thương tỉnh Phú Thọ.
Loại tài sản bao gồm:
- Nhà trung tâm thương mại và dịch vụ (nhà hàng Phù Đổng), nhà xây cấp 3, 06 tầng trong đó có 01 tầng âm + 01 tầng tum, xây dựng kết cấu bê tông cốt thép. Tổng diện tichs xây dựng là: 2330,58 m2.
- Đất thuê theo Giấy chứng nhận QSDĐ số X 023206 do UBND tỉnh Phú Thọ cấp ngày 22/5/2003 đứng tên: Công ty cổ phần ĐTTM Việt Hưng Phú Thọ có tổng diện tích sử dụng là: 300m2 (Ba trăm mét vuông); muc đích sử dụng: Xây dựng cơ bản; thời hạn sử dụng: 30 năm (đến hết ngày 26/8/2035) tại đường Hùng Vương, khu 3, phường Vân Cơ, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Kèm theo Hợp đồng thuê đất số 431/HĐTĐ ngày 26/8/2005 được giao kết giữa Đại diện Sở Tài nguyên và Môi trường với Công ty TNHH Việt Hưng Phú Thọ.”
3. Tại Đơn yêu cầu đăng ký thay đổi nội dung thế chấp, bảo lãnh đã đăng ký ngày 24/11/2010 thể hiện rõ tại mục “Tài sản đăng ký thế chấp:
2.2.2. Địa chỉ thửa đất: Khu 3, phường Vân Cơ, TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
2.1.3. Diện tích thế chấp/bảo lãnh: 300m2
2.1.4. Giấy tờ về quyền sử dụng đất:
a) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: số phát hành: X 0223206, số vào sổ cấp giấy: TC 00173 QSDD, cơ quan cấp: UBND tỉnh Phú Thọ, cấp ngày 22/05/2003”
Như vậy, từ ba căn cứ đã nêu trên, rõ ràng có thể khẳng định tài sản thế chấp ở đây là Nhà hàng Phù Đổng và Quyền sử dụng 300m2 đất thuê của công ty Việt Hưng. Cam kết này không chỉ là sự giao kết của hai bên ngân hàng với công ty, mà còn có cả sự làm chứng của công chứng viên cũng như xác nhận của cơ quan có chức năng đăng ký giao dịch bảo đảm là Văn phòng đăng ký nhà đất thuộc Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Phú Thọ. VKSND tỉnh Phú Thọ không thể duy ý chí bỏ qua các chứng cứ trên mà suy diễn rằng tài sản thế chấp không bao gồm Quyền sử dụng 300m2 đất được.
Thứ hai, VKSND tỉnh Phú Thọ cho rằng “việc bán đấu giá tài sản cũng như giao tài sản cho người trúng đấu giá trên diện tích 319,09m2 là hoàn toàn phù hợp với các quy định của pháp luật và không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự”
Theo VKSND tỉnh Phú Thọ thì sau khi Chi cục THA dân sự TP Việt Trì tiến hành kê biên thì đã phát hiện thấy diện tích xây dựng có một phần nằm ngoài diện tích đã thuê (19,09m2), nhưng do tại thời điểm này diện tích dư thừa đó chưa cấp cho ai sử dụng, cũng không tranh chấp với bất kỳ hộ liền kề và thuộc quyền quản lý của Nhà nước, nên Ngân hàng đã có công văn số 680/NHCT-KHDN ngày 10/7/2013 gửi UBND tỉnh Phú Thọ trong đó có nội dung: “trình đề nghị UBND tỉnh cho phép người mua tài sản thế chấp được tiếp tục thuê đất có gắn với tài sản phát mại để tiếp tục sản xuất kinh doanh theo quy định”. Sau đó, UBND tỉnh đã có văn bản số 2804/UBND-TH2 ngày 24/7/2013: “đồng ý với đề xuất của ngân hàng. Tổ chức, cá nhân trúng đấu giá mua tài sản của Công ty CPĐTTM Việt Hưng thế chấp để vay vốn do ngân hàng phát mại thu hồi nợ được tiếp tục sử dụng diện tích đất có gắn với tài sản phát mại đúng mục đích”
VKSND tỉnh Phú Thọ khẳng định: “bằng văn bản này, UBND tỉnh Phú Thọ là cơ quan Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu về đất đai đã cho công ty Việt Hưng thuê (300m2) cũng như diện tích đất công ty Việt Hưng đã lấn chiếm để xây dựng (19,09m2) hoàn toàn nhất trí vấn đề mang tính định hướng là sẽ tiếp tục cho tổ chức, cá nhân trúng đấu giá tiếp tục được sử dụng diện tích đất có gắn với tài sản phát mại (nhà hàng Phù Đổng) bằng hình thức tiếp tục cho thuê đất hoặc giao đất có thu tiền sử dụng đất”
Về quan điểm này của VKSND tỉnh Phú Thọ, luật sư Trương Quốc Hòe khẳng định: Căn cứ vào các quy định của pháp luật, có thể khẳng định là trong trường hợp cụ thể của Công ty Việt Hưng, pháp luật không cho phép được mang tài sản là Quyền sử dụng đất thuê của nhà nước để thế chấp cho ngân hàng, do đây là trường hợp thuê đất và trả tiền thuê đất hàng năm. Vì thế, việc Ngân hàng quy định quyền sử dụng 300m2 đất nói trên thuộc tài sản thế chấp (theo phân tích ở phần thứ nhất) là đã vi phạm quy định của pháp luật nên Hợp đồng thế chấp vô hiệu, vì vậy không thể tiến hành kê biên, bán đấu giá tài sản thế chấp để thực hiện theo các điều khoản của một Hợp đồng đã bị tuyên vô hiệu được. Ngoài ra, quá trình bán đấu giá cũng vô hiệu do vi phạm quy định tại Điều 37 Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 về Bán đấu giá tài sản vì chỉ có một người tham gia đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất được Nhà nước cho thuê đất.
Theo luật sư Trương Quốc Hòe thì khoản 1 Điều 179 Luật thi hành án dân sự năm 2008 đã quy định trách nhiệm của cơ quan ra bản án, quyết định trong thi hành án là: “Bảo đảm bản án, quyết định đã tuyên chính xác, rõ ràng, cụ thể, phù hợp với thực tế”. Vậy khi có sự sai số, dù là 1m2, 19m2 hay nhiều hơn thế đi chăng nữa thì cũng không thể tiến hành THA được, mà phải xác minh làm rõ vấn đề sai số này. Tuy nhiên trong toàn bộ hồ sơ vụ án, chúng ta đều chưa hề thấy có bất cứ văn bản nào do Chấp hành viên Đặng Xuân Quang lập liên quan đến vấn đề xác minh nguồn gốc diện tích chênh lệch này.
Giả sử có việc kê biên và bán đấu giá hợp pháp tài sản, thì diện tích đất công ty Việt Hưng đã thuê phải bị thu hồi bằng một quyết định thu hồi đất độc lập, hợp pháp thì mới bàn giao cho người khác được. Và việc UBND tỉnh Phú Thọ thu hồi diện tích đất đã cho công ty Việt Hưng thuê cũng phải tuân theo quy định tại Điều 38 Luật đất đai. Tuy nhiên trong trường hợp này, có thể thấy rõ phần diện tích đất của Công ty Việt Hưng không thuộc các trường hợp đất bị thu hồi của Điều 38, vì vậy nếu như có việc UBND tỉnh Phú Thọ thu hồi đất của công ty Việt Hưng để tiến hành cho ngân hàng thuê đất này thì sẽ là việc làm trái quy định của pháp luật về việc thu hồi đất. Việc theo quy định tại Điều 44 Luật đất đai năm 2003 thì thẩm quyền thu hồi đất chỉ thuộc về UBND tỉnh Phú Thọ.
Đối chiếu các quy định pháp luật viện dẫn trên với văn bản số 2804/UBND-TH2 ngày 24/7/2013 của UBND tỉnh Phú Thọ thì có thể thấy văn bản này không phải là Quyết định thu hồi đất đối với phần diện tích 300m2 đất mà công ty Việt Hưng đã thuê. Do vậy, cho đến thời điểm này, người mua trúng đấu giá tài sản thế chấp, nếu bỏ qua chứng cứ khách quan đã chứng minh theo phần thứ nhất mà nói theo quan điểm của VKSND tỉnh Phú Thọ, thì cũng hoàn toàn không có quyền tiếp nhận tài sản trúng đấu giá do diện tích 300m2 đất vẫn đang thuộc quyền sử dụng hợp pháp của công ty Việt Hưng.
Đặc biệt tại Quyết định Kháng nghị Giám đốc thẩm của Chánh án TAND tỉnh Phú Thọ đã nêu rõ “Tạm đình chỉ thi hành án Quyết định Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 16/2012/QĐST-KDTM ngày 23/7/2012 của TAND thành phố Việt Trì để chờ kết quả xét xử giám đốc thẩm”. Căn cứ vào Điều 286 Bộ luật Tố tụng dân sự, Khoản 1 Điều 49 Luật thi hành án dân sự thì: “Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thông báo về việc tạm đình chỉ thi hành án khi nhận được quyết định tạm đình chỉ thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm”.
Tuy nhiên Trưởng Chi cục THA dân sự TP Việt Trì không hề ban hành bất cứ văn bản nào về việc tạm đình chỉ thi hành và chấp hành viên Đặng Xuân Quang thì đã cố ý thực hiện đến cùng hành vi cưỡng chế đối với công ty Việt Hưng, gây thiệt hại hàng tỷ đồng cho công ty Việt Hưng. Hành vi này của Chi cục THA dân sự TP Việt Trì đã được lãnh đạo TAND tỉnh Phú Thọ khẳng định là chưa từng có trong tiền lệ ngành tư pháp tỉnh Phú Thọ. Do vậy, việc VKSND tỉnh Phú Thọ khẳng định việc làm của Chi cục THA dân sự TP Việt Trì là “hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật và không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự”, trong khi trước đây, chính ông Đoàn Minh Hương, Viện trưởng VKSND tỉnh Phú Thọ đã thừa nhận “việc kháng nghị của TAND tỉnh là phù hợp với quy định tố tụng”. Phải chăng đây là một sự mâu thuẫn rất khó lý giải?.
Thứ ba, VKSND tỉnh Phú Thọ khẳng định đã “triệu tập để các bên đương sự có thể thương thuyết, thỏa thuận phương án thi hành án” chứ không có việc “đề nghị các bên liên quan đến làm việc để hòa giải”.
Về vấn đề này, tại bài báo ngày 28/3/2014, báo Dân trí có đăng nguyên văn câu trả lời của ông Đoàn Minh Hương - Viện trưởng VKSND tỉnh Phú Thọ như sau: “Việc bảo VKSND tỉnh mời các bên đến hòa giải là không phải. Có việc là trước khi xảy ra việc cưỡng chế, chỗ anh Sơn là Giám đốc công ty có điện cho tôi nhờ đề nghị tác động đến cơ quan THA làm sao đó để anh Sơn lui lại vài tháng để kiếm tiền trả. Tôi có điện thoại cho Chi cục THA dân sự TP Việt Trì hỏi xem có cho người ta lui lại vài tháng không, bên Chi cục THA nói cũng được thôi nhưng ngại bên người được THA không đồng ý.
Tôi có điện thoại cho bên ngân hàng trao đổi cho người ta thêm 01 tháng. Sau đó có thống nhất với đồng chí Quang bên Chi cục THA dân sự TP Việt Trì là lên công ty Việt Hưng lập một biên bản làm việc, thống nhất lùi lại 1 tháng, hết 1 tháng không được khiếu kiện gì cả mà sẽ chấp hành. Anh Sơn đã ký đóng dấu, văn bản còn lưu trong hồ sơ THA. Sau đó lại có ý kiến muốn cho công ty Việt Hưng và Ngân hàng gặp nhau thêm một lần nữa để xin lui lại 6 tháng. Tôi nhất trí và hẹn ngày 06/12/2013 để 2 bên gặp nhau tại trụ sở VKSND tỉnh.
Đến mùng 6 thì ko thấy đâu, đến 9h 9 rưỡi cũng không thấy đâu. Cơ quan VKS đã tạo mọi điều kiện để ông ấy trả nợ, ngoài việc áp dụng pháp luật ra còn tạo mọi cơ chế để ông ấy có thể thực hiện được nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng nhưng ko thực hiện, tài sản cứ để dây dưa như thế thì sẽ mất hết”.
Cũng tại buổi làm việc với PV Dân trí, ông Hương cho rằng việc ông gọi điện thoại qua lại cũng như đã mời hai bên đến làm việc là do muốn tạo điều kiện cho cả hai bên. Ông Hương khẳng định“Nếu nói về luật pháp thì không phải, nhưng do anh em chơi với nhau nên ông ấy nhờ thì làm, vừa là cá nhân vừa là theo quy định pháp luật. Theo pháp luật cũng không sai, vì đó là tạo điều kiện cho doanh nghiệp”.
Còn hiện nay, theo công văn số 228/VKS-TCCB thì việc VKSND tỉnh Phú Thọ mời hai bên đương sự đến làm việc là tuân thủ theo đúng Điều 6 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự năm 2008, nên mới có việc cơ quan này ban hành công văn số 01/VKS-P5 ngày 02/01/2014 triệu tập buổi làm việc giữa các đương sự với Chi cục THA dân sự TP Việt Trì và VKSND TP Việt Trì.
Tuy nhiên, theo luật sư Trương Quốc Hòe thì vụ việc hiện đang được Chi cục THA dân sự TP Việt Trì thụ lý nên mọi vấn đề sẽ do Chi cục THA chủ trì giải quyết. Trường hợp cần có ý kiến can thiệp hoặc chỉ đạo để Chi cục THA làm theo đúng quy định pháp luật thì VKSND TP Việt Trì sẽ phải có ý kiến sang Chi cục THA. Nếu như VKSND tỉnh - với vai trò là một cơ quan giám sát việc thực thi pháp luật của các cơ quan tư pháp - thấy cần tổ chức một buổi làm việc để các bên gặp gỡ, đàm phán với nhau nhằm tìm ra đường lối giải quyết sớm nhất, tốt nhất cho vụ án thì phải có ý kiến chỉ đạo xuống VKSND TP Việt Trì để cơ quan này chủ động phối hợp với Chi cục THA là đơn vị thụ lý chính tiến hành cuộc họp giữa các bên với nhau và báo cáo kết quả cho VKSND tỉnh. Rõ ràng ở đây không thể có sự chồng chéo thẩm quyền lẫn nhau như vậy được, trong khi pháp luật đã quy định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp cơ quan.
Cùng một vụ việc nhưng quan điểm của Tòa án và Viện kiểm sát lại trái ngược nhau hoàn toàn. Viện kiểm sát cho rằng cơ quan Thi hành án không sai, nhưng lại vẫn luôn thừa nhận việc kháng nghị của Tòa án là đúng với trình tự tố tụng. Mà theo quy định tại Điều 49 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì khi đã có kháng nghị và có quyết định tạm đình chỉ việc thi hành án của Chánh án TAND tỉnh, cơ quan Thi hành án buộc phải ban hành thông báo tạm đình chỉ thi hành án chứ không được tiếp tục thực hiện các thủ tục thi hành án nữa..
Sau loạt bài Dân trí lật tẩy vụ cưỡng chế THA trái pháp luật của Chi cục THA TP Việt Trì, cùng việc TAND tỉnh Phú Thọ tuyên hủy Quyết định vi phạm tố tụng, Ban Nội chính Trung ương đã chính thức đề nghị Bộ Tư Pháp xử lý theo quy định pháp luật. Ngày 15/04/2014, Ban nội chính Trung ương đã chính thức có ý kiến đến Bộ Tư pháp: “Sau khi xem xét đơn; căn cứ vào Luật khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật phòng chống tham nhũng, Ban nội chính Trung ương chuyển đơn đến Bộ tư pháp để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật và thông báo kết quả cho Ban nội chính Trung ương”. |
Dân trí sẽ tiếp tục thông tin đến bạn đọc.
Anh Thế