Trộm vợ - hôn nhân "đi tắt" kỳ lạ ở miền Tây xứ Nghệ
(Dân trí) - "Trộm vợ" được xem là phong tục của đồng bào Thái ở huyện Quỳ Hợp (tỉnh Nghệ An). Nhưng những năm gần đây, "trộm vợ" đã bị biến tướng, trở thành nỗi ám ảnh của không ít cô gái trẻ ở huyện miền Tây Nghệ An này.
Nếu như đồng bào Mông có tục “cướp vợ” thì đồng bào Thái tại huyện Quỳ Hợp, Nghệ An cũng có tục “trộm vợ”. Theo ông Lương Viết Thoại (xã Châu Quang, Quỳ Hợp) – một người con đồng bào dân tộc Thái, có nhiều am hiểu về phong tục của đồng bào mình thì tục trộm vợ là hình thức hôn nhân khá kỳ lạ, hôn nhân “đi tắt” của của đồng bào Thái nơi đây.
Những cuộc hôn nhân theo kiểu “đi tắt” như thế thường diễn ra ở những trường hợp khi tình yêu của người con trai và người con gái bị một trong hai bên gia đình ngáng trở hoặc do cô gái bị ép duyên.
“Trong khởi thủy của người Thái Quỳ Hợp, trộm vợ thường được xem là "cứu cánh" của những chàng trai nghèo không đủ tiền để đáp ứng lời thách cưới thường rất tốn kém của nhà cô gái hoặc tình yêu đôi lứa bị ngăn cản.
Việc “trộm vợ” thường được sự đồng thuận của cô gái để đưa cuộc hôn nhân vào tình huống “chuyện đã rồi”. Khi đó, chàng trai sẽ bị “phạt vạ” nhưng khoản phạt vạ này sẽ nhỏ hơn rất nhiều so với thách cưới theo phong tục. Tuy nhiên, để đi được đến hôn nhân, cả hai người sẽ phải thực hiện nhiều nghi lễ theo phong tục. Nói cách khác, trộm vợ chỉ giản lược một số bước trong thủ tục cưới hỏi khá phức tạp của người Thái Quỳ Hợp”, bà Vi Thị Hoa – Phó trưởng phòng Văn hóa huyện Quỳ Hợp cho hay.
Còn theo ông Lương Viết Thoại, tục "trộm vợ" được ví như một sự vượt rào, bứt phá, một sự phản kháng công khai và mạnh mẽ nhất của trai gái Thái trước những hà khắc của phong kiến ngày xưa, để mưu cầu hạnh phúc cho bản thân và người mình yêu thương. Để "trộm vợ", chàng trai phải lén đặt vài lá trầu, hai trái cau và một chai rượu trắng lên bàn thờ nhà cô gái và chờ thời điểm thích hợp để đưa cô gái “xuống sàn”, thường là vào lúc rạng sáng. Cuộc trộm vợ có khi còn nhận được sự giúp đỡ của những người bạn thân của cô gái.
Cuộc hôn nhân của đôi trai gái sẽ được xác lập bước đầu tiên khi họ “ăn cơm, uống rượu chung” trong lễ cúng ma nhà chàng trai. Nếu cô gái thuận tình với cuộc hôn nhân này bằng cách ăn cơm chung mâm, uống chung bình rượu cần, cô sẽ được “tẳng cẩu” (bới tóc cao lên đỉnh đầu).
Cuộc hôn nhân chính thức có tính pháp lý về mặt tâm linh là khi hai người “chung chăn, chung đệm” dù chưa chính thức “ngủ chung” với nhau. Tuy nhiên để được xem là người “sống nhà chồng nuôi, chết nhà chồng chôn” thì dứt khoát phải có đám cưới diễn ra.
Đám cưới chỉ diễn ra khi được sự đồng thuận của nhà gái sau khi đã nhận “nộp phạt” của nhà chàng trai, gồm 1 nén bạc trắng, 1 đôi vòng tay bằng bạc và 1 con trâu đực sừng nhú ngang tai. Thường thì sẽ xảy ra “mặc cả” giữa hai bên vì phía nhà gái sẽ thách cưới cao để chứng tỏ con gái mình có giá. Trong khi đó, nhà trai sẽ dựa vào “chuyện đã rồi” để giảm bớt các khoản thách. Đó chỉ là phần thủ tục bởi hai bên sẽ thông cảm cho nhau để cuộc hôn nhân của đôi trẻ được thuận lợi.
Cũng có trường hợp gia đình cô gái không đồng ý cho cưới, như thế chàng trai cũng bị phạt vạ. Tuy nhiên, trường hợp này thường ít xảy ra.
“Trộm vợ là một hình thức hôn nhân đi tắt của đồng bào Thái. Mặc dù vậy, người Thái ở Quỳ Hợp rất tôn trọng quyết định của người con gái. Trong trường hợp bị “ép duyên”, khi bị “trộm” về, cô gái không chịu ăn chung mâm, uống chung bình rượu cần trong lễ cúng ma nhà chàng trai thì cuộc hôn nhân đó cũng không thành. Tuy nhiên, hình thức hôn nhân tốt đẹp và nhân văn này gần đây đã bị biến tướng, gây nên nhiều hệ lụy, đặc biệt là khi các cô gái ở độ tuổi rất trẻ, nhiều em đang ngồi trên ghế nhà trường”, ông Lương Viết Thoại chia sẻ.
Hoàng Lam
Kỳ 2: Những thiếu phụ chưa kịp lớn