1. Dòng sự kiện:
  2. Metro số 1 TPHCM
  3. Phóng hỏa quán cà phê làm 11 người chết

Rắn "đẻ" ra vàng

Từ một nông dân vốn chỉ nhờ cậy vào cây cói, sau 10 năm vật lộn nuôi rắn hổ mang, anh đã trở nên giàu có. Tuy chưa nhiều tiền như những người bán vàng, hay buôn hàng ngoại quốc, nhưng đã có của ăn của để, của dành cho các con lúc lấy vợ gả chồng.

Trong khi dân làng say sưa với giấc ngủ, thì “chàng rái cá” bì bõm dưới ao hoặc cánh đồng cói để đổ ống lươn. Mùa đông trời rét căm căm, cái quần đùi không đủ che nửa thân người, hai hàm răng cắn chặt vào nhau, bàn tay chai sần tím tái vì ngâm lâu trong nước, nhưng thà chịu khổ, rét mướt còn hơn để vợ con tắt bữa.

 

Đó là hình ảnh của “chàng rái cá” cách đây 27 năm về trước, còn bây giờ anh là ông chủ của đàn rắn “đẻ” ra vàng, anh là Nguyễn Đình Khôi ở xóm 2, xã Nga Liên, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

 

Bát cơm chan đầy nước mắt

 

Làm cách nào để thoát nghèo khi trong tay không nghề nghiệp. 3 sào cói chỉ đủ cho “4 cái tàu há mồm” ăn học trong hai tháng, 10 tháng còn lại phải chạy vạy “buôn thúng bán mẹt” nhưng cháo vẫn không đủ ăn.

 

Không thể bó tay và để vợ con đói khổ, Khôi đã lập nghiệp nghề rắn bằng đi đặt ống lươn ở các ao hồ khắp 6 xã trồng cói. Đó là câu chuyện của “chàng rái cá” cuối thập niên 80 của thế kỷ trước.

 
Giới thiệu rắn hổ mang trâu với khách.
Giới thiệu rắn hổ mang trâu với khách.
 

Vượt qua cánh đồng cói và con đường ngoằn ngoèo liên thôn, chúng tôi đến nhà anh Nguyễn Đình Khôi ở xóm 2 xã Nga Liên (huyện Nga Sơn, Thanh Hóa). Vợ anh - chị Lương Thị Nữ - nở nụ cười tươi rói trên môi: “Chúc mừng năm mới. Mời các chú vào nhà, đi cả giày vào”.

 

- Năm nay được mùa rắn, thảo nào hai bác đón tết to là phải rồi?

 

- Chẳng giấu gì hai chú, tất cả công trình này đều nhờ vào rắn cả đấy. Ngày trước đói nghèo khổ sở, tết chẳng đủ gạo ăn, nay có tiền cũng phải sắm cái tết cho tươm tất chứ. Chị Nữ vui vẻ như cởi tấm lòng.

 

Nhìn dãy nhà ngói khang trang hình chữ U xây dựng khá vững chắc giữa cánh đồng cói, ít ai biết nơi này trước đây là ao hồ sình lầy. Người dân xã Nga Liên chỉ đến đây ban ngày, còn về đêm không ai bén bảng tới. Phần vì sợ rắn rết, trẻ con thì sợ ma vì quá hoang vu.

 

Thấy chúng tôi ngạc nhiên, anh Khôi phân trần: “Căn nhà này tôi xây gần 5 năm rồi, tất cả từ tiền nuôi rắn. Trước đây cả vợ chồng con cái ở cái nhà lợp bổi. Mùa nắng không có chỗ mà chui, mùa mưa ngập nước. Lúc ấy, nhà mới có 4 cái “tàu há mồm”, sắn khoai cũng không đủ. “Lúc đó gia đình tôi nghèo rớt mồng tơi, có thể nói nghèo nhất xã Nga Liên. Cả nhà chỉ có 1 cái giường bằng luồng, tôi nhường cho mẹ con nó còn mình nằm đất.

 

Ngày ấy tôi mới có hai đứa con chứ không phải 9 đứa như bây giờ. Quần áo chúng nó mặc chung. Như một vòng luẩn quẩn, đã nghèo lại đông con, vợ đẻ sòn sòn năm một. Làm gì để nuôi mình và vợ con khi cả nhà chỉ có ba sào ruộng, con thì ngày một lớn dần, trong khi tiền kiếm được từ bán cói khô không đủ mua gạo nấu cháo qua ngày. Bao đêm tôi suy nghĩ nát óc: Nghề cơ khí thích lắm nhưng mình không có trình độ, làm cói thì bán chẳng ai mua. Tôi bắt đầu đi bắt lươn từ sự mách bảo của người hàng xóm” - anh Khôi chia sẻ.

 

Tìm những ống nứa, ống tre cũ và học hỏi từ người đi trước, tự tay anh đan toi (ở Nga Sơn gọi nắp ống lươn là cái toi). Gà gáy canh ba, khi dân làng say sưa với giấc ngủ, thì “chàng rái cá” bì bõm dưới ao hoặc cánh đồng cói để đổ ống lươn.

 

Mùa đông trời rét căm căm, cái quần đùi không đủ che nửa thân người, hai hàm răng cắn chặt vào nhau, bàn tay chai sần tím tái vì ngâm lâu trong nước, đôi mắt mờ đục vì nhiều đêm thức trắng và nhiễm khói từ vỏ lốp xe đạp, cái lưng gầy đét cúi rạp sát mặt nước để đổ ống lươn.

 

Sau những giờ mò mẫm trong giá rét, anh trở về cái túp lều lợp bổi của mình. Nhiều đêm chị Nữ - vợ anh - không ngủ yên, phần vì thương chồng vất vả, phần sợ chồng bị rắn cắn. Bưng bát cơm sắn nhiều hơn gạo vợ để dành phần hơn cho mình, anh rớt nước mắt. Chị Nữ đổ lươn ra khỏi ống nứa rồi đem đi chợ Hói Đào bán lấy tiền mua “sắn ngạc hưu” về nấu cháo, anh Khôi ở nhà trông con.

 

Ngày nối ngày, vợ chồng “chàng rái cá” đầu tắt mặt tối mà cũng chỉ đủ ngày 2 bữa cơm độn sắn. Cuộc sống của gia đình anh bắt đầu khởi sắc khi “chàng rái cá” giã từ những đêm một mình mò mẫm dưới ao hồ, chuyển nghề buôn rắn con, nuôi rắn thịt.

 

Anh Khôi dùng cần bắt rắn hổ mang ra khỏi chuồng
Anh Khôi dùng cần bắt rắn hổ mang ra khỏi chuồng

 

Rắn “đẻ” ra vàng

 

Anh Nguyễn Đình Khôi bây giờ không còn là “chàng rái cá” năm nào với bát cơm sắn nhiều hơn gạo nữa, mà là ông chủ luôn tất bật với công việc tính toán tiền nong, đếm trứng, giao hàng cho khách.

 

Giọng anh oang oang: “Tất cả nhà cửa, vật dụng trong nhà đều bằng tiền bán rắn. Chú biết không, trước đây gia đình tôi nghèo lắm. Nhà có 9 đứa con, chỉ kiếm tiền mua gạo cho chúng ăn đã bở hơi tai rồi chứ chưa nói tiền học hành. Từ ngày nuôi được con rắn, không những thoát nghèo, cho con ăn học mà còn mua được nhiều vật dụng đắt tiền”.

 

Anh Khôi chia sẻ, nếu tính kinh tế thì trứng rắn là thu hoạch hiệu quả kinh tế cao nhất. Rắn cái sau khi giao phối, chúng mang bầu và bắt đầu sinh sản vào tháng 4 hằng năm. Mỗi ngày một con rắn cái đẻ khoảng 20 đến 30 quả trứng, đẻ liên tục trong 15 ngày. Trứng rắn hổ mang bành bán cho lái buôn tại nhà là 130.000 đồng/quả, trứng hổ mang trâu bán 270.000 đồng/quả.

 

Một ngày thu nhập từ 20 đến 30 triệu đồng từ trứng rắn là bình thường. Giá rắn thịt hiện nay cho lái buôn 700.000 đồng/kg đối với rắn hổ mang bành, hổ mang trâu có giá từ 1.000.000 đồng đến 1.200.000 đồng/kg.

 

Gia đình tôi nuôi 600 con, chủ yếu hai loài rắn độc hổ mang bành và hổ mang trâu, đây là loại bán chạy trên thị trường hiện nay. Năm nay tôi tiếp tục mở thêm chuồng trại và đầu tư nuôi thêm 500 con rắn giống nữa.

 

Sống chung với rắn độc

 

Anh Nguyễn Đình Khôi cầm đèn pin dẫn chúng tôi xuống căn nhà ngang bên trái. Hàng trăm ô vuông kết cấu theo hình “gác măng dê” chồng lên nhau ngay ngắn, đó là những chuồng rắn hổ mang độc được nhốt một cách cẩn thận.

 

Anh Khôi nhẹ nhàng mở cửa một chuồng rắn và soi đèn pin vào. Một con rắn hổ mang ngẩng cao đầu, thè lưỡi, mắt thao láo nhìn về phía trước. Anh cho biết “loại rắn hổ mang ưa sống trong bóng tối và hang hốc khô cằn. Đây là loài rắn độc nên phải nhốt riêng mỗi con một chuồng.

 

Có bao giờ anh bị rắn cắn không? - tôi hỏi. Anh Khôi chìa bàn tay có vết sẹo chạy dài nói với tôi: “Đây là vết tích của hàm răng con xà mang. Lần ấy, tôi dọn vệ sinh chuồng, vừa đưa xẻng vào hót phân, con xà mang ngoắt cổ lại đớp liền vào tay. Máu chảy lều hêu, tôi nhanh chóng uống thuốc giải độc và rửa sạch vết thương đến luôn bệnh xá. Lần đó tưởng bỏ mạng và không bao giờ nuôi rắn nữa. Thế nhưng do yêu nghề nghiệp nên lại mua rắn con về nuôi”.

 

Theo kinh nghiệm của anh Khôi, khó khăn nhất là lúc dọn vệ sinh cho rắn và lúc lấy trứng rắn. Rắn cái khi đẻ rất hung dữ giữ trứng. Khi lấy trứng phải dùng cái cần hình phễu lấy nhẹ nhàng từng quả một và tránh đụng vào rốn rắn, vì đó là phần nhạy cảm dễ làm rắn nhột.

 

Khi bị nhột, rắn sẽ quay đầu lại đớp liền hoặc lao thẳng vào mắt mình. Để phòng rắn cắn, khi dọn chuồng, lấy trứng, phải đeo gang tay bảo hộ dài, dày, đeo kính và bịt kín mặt để tránh bị rắn phát hiện ra mắt của mình và tấn công.

 

Từ một nông dân quanh năm vốn chỉ nhờ cậy vào cây cói, sau 10 năm vật lộn với nghề nuôi rắn hổ mang, anh đã trở nên giàu có. Tuy chưa nhiều tiền như những người bán vàng, hay buôn hàng ngoại quốc, nhưng đã có của ăn của để, của dành cho các con lúc lấy vợ gả chồng. “Khách đến nhà nói đến nuôi rắn độc trong nhà ai cũng rùng mình, còn chúng tôi là bạn của rắn, từ rắn mà có cơm ăn áo mặc”, anh Khôi nói chân thành.

 

Theo Trần Mạnh Tuấn

Lao động