Quốc hội "chốt" GDP năm 2022 là 6-6,5%
(Dân trí) - Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, việc đặt chỉ tiêu tăng trưởng GDP khoảng 6-6,5% thể hiện quyết tâm cao của Chính phủ, đồng thời để bảo đảm hài hòa, linh hoạt trong thực hiện các mục tiêu năm 2022.
Chiều 12/11, Quốc hội thông qua Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) năm 2022. Nghị quyết nêu rõ, mục tiêu năm 2022 là thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19, bảo vệ tối đa sức khỏe, tính mạng của nhân dân cùng với tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ hiệu quả người dân và doanh nghiệp…
Các chỉ tiêu chủ yếu trong năm 2022 đó là, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) khoảng 6-6,5%; GDP bình quân đầu người đạt 3.900 đô la; Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 04%; Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 04%…
Trước khi Quốc hội bấm nút thông qua, một số ý kiến cho rằng mức tăng trưởng GDP khoảng 6-6,5% khó hoàn thành; nên đặt mức tăng trưởng GDP khoảng 5-5,5%.
Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ tiêu tăng trưởng GDP năm 2022 được xây dựng trên cơ sở phân tích, dự báo bối cảnh tình hình trong nước, quốc tế, có tính đến những yếu tố thuận lợi, khó khăn của năm 2021 trên nền tăng trưởng thấp (khoảng 2%), bám sát định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm.
"Việc đặt chỉ tiêu khoảng 6%-6,5% thể hiện quyết tâm cao của Chính phủ, đồng thời để bảo đảm hài hòa, linh hoạt trong thực hiện các mục tiêu năm 2022, do đó, xin Quốc hội cho giữ như dự thảo", ông Vũ Hồng Thanh - Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nói.
Quốc hội đề nghị các cơ quan liên quan tập trung thực hiện linh hoạt, hiệu quả mục tiêu vừa phòng, chống dịch Covid-19, vừa phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể, triển khai đồng bộ, hiệu quả Chiến lược tổng thể về phòng, chống dịch Covid-19 và Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội (sau khi được cấp có thẩm quyền quyết định).
Đẩy mạnh huy động các nguồn lực xã hội và ưu tiên bố trí nguồn ngân sách nhà nước để tập trung nâng cao năng lực hệ thống y tế và các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách khác. Thực hiện các chính sách, giải pháp để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.
Về kết cấu hạ tầng, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các dự án trọng điểm, nhất là các công trình hạ tầng giao thông quan trọng như Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020 (hoàn thành một số dự án thành phần: Cam Lộ - La Sơn; Dầu Giây - Phan Thiết; Vĩnh Hảo - Phan Thiết; Mai Sơn - Quốc lộ 45); dự án đường cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ; dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành…
Khẩn trương triển khai các dự án hạ tầng nền tảng số quốc gia dùng chung. Khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ thông tin mở rộng đầu tư nội dung số trong các ngành công nghiệp và dịch vụ, như: công nghiệp điện tử, công nghiệp công nghệ thông tin, công nghiệp an toàn, an ninh mạng.
Đầu tư đồng bộ hạ tầng đô thị các khu kinh tế ven biển. Phát triển hệ thống hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, nhất là các công trình thủy lợi, cảng cá, trung tâm nghề cá lớn, khu neo đậu tránh trú bão; các dự án chống sạt lở thích ứng biến đổi khí hậu…
Các chỉ tiêu chủ yếu
1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) khoảng 6-6,5%.
2. GDP bình quân đầu người đạt 3.900 đô la Mỹ (USD).
3. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 25,5-25,8%.
4. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 04%.
5. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân khoảng 5,5%.
6. Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội đạt 27,5%.
7. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 67%, trong đó có bằng, chứng chỉ đạt khoảng 27-27,5%.
8. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 04%.
9. Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều) giảm khoảng 01-1,5%.
10. Số bác sĩ trên 1 vạn dân đạt 9,4 bác sĩ.
11. Số giường bệnh trên 01 vạn dân đạt 29,5 giường bệnh.
12. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 92% dân số.
13. Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt 73%.
14. Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 89%.
15. Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 91%.