Dị nhân sông Hồng
Hơn 30 năm qua, bà và anh em trong gia đình đã gắn cuộc đời với khúc sông tử thần. Họ không ngại nguy hiểm, gian truân để cứu người gặp nạn.
"Hà Bá nào lại đi hại người tốt"
Bà Bình kể vào mùa lũ năm ngoái, trong khi đi tắm sông Hồng, một đứa bé bên Tây Hồ bị nước xoáy cuốn rồi nhấn chìm. Nghe có người tri hô, bà Bình liền nhảy xuống dòng nước xoáy. Sau hơn một giờ đánh vật với thủy thần, may thay, đứa bé được cứu sống. “Lúc tôi đưa đứa bé lên bờ, người nó lạnh toát.
Không kịp đưa đi bệnh viện, bằng kinh nghiệm của mình, tôi vội hút miệng, hút mũi, hô hấp nhân tạo để em thở. Mãi vẫn không thấy đứa bé động đậy, tôi cứ ngỡ nó chết rồi. Bí quá, cuối cùng tôi đã phải chạy vào nhà dân xin lông gà thông vào mũi, vào cổ họng rồi thổi từ mũi xuống miệng... May quá, sau đó đứa bé từ từ thở được. Thế là sống!” – bà Bình nhớ lại.
Khi cứu người, bà Bình chẳng hề ngại ngần gì nhưng lúc xong việc, bà lại thấy nhờn nhợn. “Như đứa bé bị nước xoáy cuốn ấy, khi cứu nó xong tôi mới thấy ghê người. Bao nhiêu dịch đờm của đứa bé, tôi phải hút hết, thậm chí lúc vội lại nuốt luôn với hy vọng cứu sống nó” - bà Bình thổ lộ. Rồi bà lau nước mắt:
“Thương nhất là khi phải vớt thi thể những em học trò, sinh viên. Có lần, tôi vớt một thi thể mà không cầm nổi nước mắt khi nhìn thấy nét mặt ngây thơ và bộ đồng phục học sinh trên người nạn nhân”.
Bà Bình là chị lớn trong gia đình, bố mất sớm nên phải vất vả nuôi em từ nhỏ bằng nghề sông nước. Cũng giống như người chị, ông Trần Tí cũng theo nghề sông nước. Nghề chài lưới từ lâu đã trở thành truyền thống của gia đình bà Bình trên sông Hồng. Bà Bình uống rượu như nước.
Bà bảo bà uống rượu cũng là do nghề mà thành thói quen. Mùa lũ, sông Hồng cuộn đỏ, gầm gừ cả đêm đến sáng. Bao giờ cũng thế, cứ đến mùa này, người dân ven đoạn sông nơi bà Bình cặp thuyền sinh sống phải chứng kiến nhiều cảnh đau lòng trước những tiếng khóc xé lòng của người thân nạn nhân đuối nước được chính bà và anh em trong gia đình vớt lên... “Tôi uống rượu nhiều để quên đi phần nào những cảnh đó” – bà tâm sự.
Ở nhiều xứ vạn chài, ngư dân không bao giờ dám cứu người chết đuối vì họ quan niệm rằng số mệnh của nạn nhân đến đó là hết, một khi Hà Bá đã gọi thì không ai dám cưỡng lại. Nếu cố tình cứu người chết đuối, ngư dân sẽ phải thế mạng cho người đó... Bà Bình bỏ ngoài tai tất thảy. Trong thâm tâm, bà luôn tự nhủ cứu người, vớt thi thể người chết đuối là làm phúc, mà đã làm phúc thì Hà Bá nào lại đi hại người tốt!
Chị Nguyễn Thị Huyền, một người dân làng Chèm, cho biết: “Cả làng này và xóm chài ven sông chẳng ai như bà Bình và những người em trong nhà bà. Thi thể người nổi trên sông trương phình, lúc trồi, lúc hụp, ai trông thấy cũng sởn tóc gáy. Ấy thế mà có khi đang ăn cơm trên thuyền, bà ấy cũng bỏ bát bỏ đũa ùm xuống nước vớt nạn nhân lên bờ. Không ít người cảm phục đã gọi bà là “dị nhân sông Hồng”.
Tôi mong mình không phải làm việc ấy
Bà Bình bắt đầu cứu người, vớt thi thể nạn nhân chết đuối từ năm 17 tuổi. Hai người em của bà là Cường và Tí cũng theo chị làm nghĩa cử này từ thuở nhỏ. Cả đời gắn bó với sông nước, đến giờ, khúc sông Hồng qua làng Chèm chỗ nào nông, sâu, nguy hiểm, chỗ nào thường có nước xoáy..., bà và những người trong gia đình đều thuộc như trong lòng bàn tay. Sống trên sông, ngủ trên sông nên không ít lần chị em bà Bình đã chứng kiến cảnh nhiều người trầm mình tự vẫn và họ khó thể dửng dưng.
Bà Bình nhớ mãi mùa lũ năm 1971, khi bà vừa tròn 17 tuổi. Thời tiết khắc nghiệt, lũ dâng cao làm ngập úng nhiều nơi. Khúc sông gia đình bà sinh sống từ Dầy Kẻ (Đan Phượng) đến Xù Gạ (Tây Hồ) chìm trong biển nước. Lũ dữ dằn cuốn phăng nhiều nóc nhà, cướp đi nhiều sinh mạng.
Con thuyền của gia đình bà Bình cũng tròng trành trong lũ dữ. Trong lúc cố giữ thuyền, giữ lưới, cô gái trẻ phải chứng kiến nhiều cảnh người bị lũ cuốn rồi nhấn chìm. Thế rồi, không thể cầm lòng trước cảnh tượng đó, cô đã lao ra khỏi thuyền, nhào xuống dòng sông để giành giật lại mạng sống của những người đang chới với trước lưỡi hái tử thần. Từ đó, nghiệp cứu người, vớt xác gắn với cuộc đời cô như một cái duyên nợ không rời bỏ.
Người dân sống gần khúc sông Hồng qua làng Chèm rất thán phục biệt tài bơi lặn của bà Bình. Đến nay, khi bà Bình đã xấp xỉ 60 tuổi, ngay cả cánh nam giới trong làng cũng chào thua bà về chuyện bơi lội.
Cái nắng, cái gió của cuộc đời sông nước khiến bà Bình già hơn nhiều so với tuổi tác. Tôi tò mò: “Bà đã cứu được bao nhiêu người, vớt được bao nhiêu thi thể?”. Bà Bình lắc đầu, nghiêm giọng: “Tôi không nhớ nổi đâu, nhưng mà ai lại đi tính những cái đó làm gì! Tôi vớt nhiều người rồi tiếng đồn lan xa. Mỗi khi gia đình nạn nhân biết tin người nhà mình gặp nạn trên khúc sông này, họ liền đến nhờ tôi và gia đình”.
Gần 60 tuổi nhưng có đến 42 năm làm công việc vớt người, từ lâu bà Bình đã trở thành người cứu hộ bất đắc dĩ trên sông Hồng. Công việc này đã cho bà nhiều kinh nghiệm cứu người quý giá. Bà cho biết: “Trong trường hợp vớt người mới rơi xuống nước, tôi có thể biết còn cứu chữa được hay không. Có hai điều đáng lưu ý trong trường hợp cứu người đuối nước là không được tiêm thuốc và không được động vào bàng quang của họ bởi rất nguy hiểm, khó cứu sống”.
Giờ đã lớn tuổi nhưng bà Bình vẫn chưa có ý định nghỉ việc giúp người, bởi bà luôn quan niệm nghĩa tử là nghĩa tận ở đời. Có lẽ, với bà Bình, hạnh phúc không nằm ở tiền bạc hay cuộc sống đủ đầy mà chính là ở cái tâm, cái tình. Câu nói của bà lúc chia tay để lại trong tôi nhiều ấn tượng: “Đời người như muối bỏ biển, biết sống chết thế nào. Cho nên, còn sức là tôi vẫn tiếp tục vớt người. Tuy nhiên, tôi mong mình mãi mãi không phải làm việc ấy”.