Cơ hội để 15 tỉnh phía Bắc thúc đẩy kinh tế ven sông Thái Bình, sông Hồng
(Dân trí) - Những quy định mới về phòng, chống lũ trên hệ thống sông Thái Bình, sông Hồng đã mở ra cơ hội phát triển kinh tế - xã hội ven sông cho các địa phương có 2 con sông này chảy qua.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) đã có những nghiên cứu, đề xuất trình Chính phủ để thực hiện quy định mới về phòng, chống lũ trên hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình. Những điều chỉnh mới nhằm phù hợp thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội cho các địa phương ven hệ thống 2 con sông này.
Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 429/QĐ-TTg ngày 21/4/2023 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 257/QĐ-TTg ngày 18/2/2016 về phê duyệt Quy hoạch phòng, chống lũ và quy hoạch đê điều hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình.
Phạm vi quy hoạch phòng, chống lũ và quy hoạch đê điều hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình bao gồm địa phận 15 tỉnh, thành phố: Hòa Bình, Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Hải Phòng, Quảng Ninh, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên.
Việc sử dụng bãi sông phải đảm bảo tuân thủ các quy định của Luật Đê điều và các quy định pháp luật khác có liên quan, không làm ảnh hưởng đến khả năng thoát lũ, chứa lũ và không làm gia tăng rủi ro thiên tai.
Một số nội dung mới
Quyết định số 429/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung về một trong các giải pháp phòng, chống lũ là sử dụng bãi sông.
Các khu vực dân cư tập trung hiện có theo quy định được tồn tại, bảo vệ: Được cải tạo, xây dựng mới công trình, nhà ở theo quy hoạch xây dựng, quy hoạch sử dụng đất; được sử dụng thêm một phần bãi sông để bố trí mặt bằng tái định cư cho các hộ dân nằm rải rác gần khu vực với diện tích không vượt quá 5% diện tích khu dân cư hiện có.
Theo ông Trần Công Tuyên, Trưởng phòng quản lý đê điều, Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai (Bộ NN&PTNT), điểm mới của quy định đối với các khu dân cư hiện có là việc sửa chữa, cải tạo, xây dựng mới công trình, nhà ở trong khu dân cư hiện có sẽ thuộc thẩm quyền của các địa phương theo quy định tại Điều 27 Luật Đê điều, tạo điều kiện thuận lợi ổn định đời sống người dân ở các khu vực này.
Đối với các khu dân cư hiện có dọc các hệ thống các sông này nhưng chưa có trong quy định, UBND cấp tỉnh tổ chức xác định cụ thể vị trí, diện tích các khu vực dân cư tập trung hiện có được tồn tại, bảo vệ để đưa vào quy hoạch tỉnh và chịu trách nhiệm về số liệu, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Khu dân cư tập trung hiện có được tồn tại, bảo vệ phải đáp ứng một trong các tiêu chí sau: khu phố cổ, làng cổ theo quy định tại Khoản 16 Điều 3 Luật Đê điều; diện tích nhỏ hơn 5ha và có từ 400 người (hoặc 100 hộ) trở lên; diện tích lớn hơn 5ha và có mật độ dân cư từ 80 người/ha (20 hộ/ha) trở lên, trong đó không được quy đổi khu vực có mật độ dân cư cao bù cho khu vực có mật độ dân cư thấp; có cao độ nền tự nhiên khu dân cư cao hơn mực nước lũ thiết kế đê.
Các bãi Tàm Xá - Xuân Canh và Long Biên - Cự Khối thuộc khu vực đô thị trung tâm TP Hà Nội đã có trong quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội được cấp thẩm quyền phê duyệt, được quy hoạch xây dựng đô thị về phía tuyến đê hiện tại.
Trong đó, diện tích xây dựng công trình, nhà ở mới và các hoạt động tôn cao bãi sông không vượt quá 15% diện tích bãi sông. Phần diện tích bãi sông còn lại được sử dụng cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm cả xây dựng hạ tầng kỹ thuật, công trình công cộng, nhưng không làm tôn cao bãi sông hiện có.
Các bãi sông được nghiên cứu xây dựng: Các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng công trình, nhà ở mới theo quy định chỉ được xem xét đối với một số khu vực mà chiều rộng bãi sông (khoảng cách từ chân đê đến mép bờ của sông) lớn hơn 500m, vận tốc dòng chảy trên bãi tương ứng với lũ thiết kế nhỏ hơn 0,2 m/giây.
Trong đó, diện tích xây dựng công trình, nhà ở mới và các hoạt động tôn cao bãi sông không được vượt quá 5% diện tích bãi sông. Phần diện tích bãi sông còn lại được sử dụng cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm cả xây dựng hạ tầng kỹ thuật, công trình công cộng nhưng không làm tôn cao bãi sông hiện có.
"Điểm mới của Quyết định 429 là cho phép các địa phương có thể điều chỉnh tăng diện tích xây dựng ở 1 bãi sông cụ thể vượt 5% nhưng phải khống chế tổng diện tích xây dựng của các bãi sông trên tuyến sông đó thuộc tỉnh không vượt quá 5% để đảm bảo thoát lũ và phải cụ thể hóa trong quy hoạch tỉnh", ông Tuyên giải thích.
Các khu vực bãi sông còn lại được sử dụng cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội nhưng không được xây dựng công trình, nhà ở, trừ công trình quy định tại khoản 1, khoản 2 điều 26 Luật Đê điều; không được tôn cao bãi sông hiện có.
UBND tỉnh rà soát, lập, điều chỉnh nội dung phương án phát triển hệ thống đê điều trong quy hoạch tỉnh; khi sử dụng bãi sông nơi chưa có công trình xây dựng để thực hiện các dự án đầu tư xây dựng công trình, nhà ở, địa phương phải lập dự án đầu tư cụ thể, gửi Bộ NN&PTNT thẩm định các nội dung liên quan đến thoát lũ, an toàn đê điều, trình Thủ tướng Chính phủ theo đúng quy định.
Cần sớm đưa phương án phòng chống lũ vào quy hoạch tỉnh
Là đơn vị trực tiếp nghiên cứu và đề xuất cho điều chỉnh mới, ông Tuyên nhấn mạnh việc cần sớm đưa phương án phòng, chống lũ vào quy hoạch tỉnh.
Theo chia sẻ của ông Tuyên, những sửa đổi trong Quyết định số 429/QĐ-TTg hiện nay đang hỗ trợ tối đa cho các địa phương trong việc phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là khu vực ven sông, ven đê.
Tuy nhiên hiện nay cũng là thời điểm nhiều địa phương đã và đang lập quy hoạch tỉnh để trình phê duyệt thì cần đưa ngay phương án phòng, chống lũ vào quy hoạch tỉnh để có cơ sở thực hiện quyết định này.
"Ngay cả những địa phương đã lập quy hoạch và đang trình hội đồng thẩm định quốc gia cũng có thể có những đề xuất, báo cáo bổ sung để kịp thời đưa phương án phòng, chống lũ vào quy hoạch chung của địa phương mình", ông Tuyên nhấn mạnh.
Ông Tuyên chia sẻ thêm, Quyết định số 429/QĐ-TTg được xây dựng trên tinh thần ưu tiên cao nhất là an toàn phòng, chống lũ, cùng với đó những yếu tố để tạo dư địa phát triển kinh tế - xã hội cho các địa phương cũng được cân nhắc kỹ càng hơn. Do đó việc vận dụng thực hiện của địa phương để tối ưu hóa được quyết định này rất quan trọng.
"Chúng tôi đã nghiên cứu kỹ các nội dung, đặc biệt là những đề xuất của địa phương. Quan điểm thực hiện là để giải quyết khó khăn theo cách tháo gỡ chứ không phải thỏa mãn mọi nhu cầu của các địa phương, không để theo hướng triệt để tận dụng bãi, sông. Với quy mô của nền kinh tế hiện nay, nếu để xảy ra vỡ đê thì hậu quả sẽ rất nặng nề", ông Tuyên nhấn mạnh.