Gia Lai:
Chuyện những “cao bồi” chăn bò thuê, sống nhờ... phân bò
(Dân trí) - “Mỗi năm gia đình tôi kiếm được 20 triệu đồng từ việc chăn bò, nhưng kiếm được khoảng 70 triệu đồng từ việc bán phân bò. Tuy công việc vất vả và phải chịu sống chung với mùi hôi hám của phân bò, nhưng ngửi mãi rồi cũng... quen”.
Lần đầu tiên đến thăm xóm “cao bồi” ở làng Ring II (xã Hbông, Chư Sê, Gia Lai), chúng tôi không khỏi trầm trồ trước khối tài sản của những người nông dân nơi đây khi thấy mỗi gia đình sở hữu những đàn bò lên tới cả trăm con. Thực tế cuộc sống của họ khá cơ cực và bấp bênh. Bởi chủ nhân thật sự của những đàn bò "khủng" này lại là những người khác.
Cách đây 9 năm, vợ chồng ông Nguyễn Văn Lo (51 tuổi) và bà Nguyễn Thị Hiển (49 tuổi) dắt theo 3 người con trai rời quê hương từ Tây Sơn (Bình Định) lên làng Ring II lập nghiệp. Hành trang họ mang theo chỉ có cái nghèo và nhiều cái không: không vốn, không tấc đất cắm dùi, không trình độ, không nghề nghiệp… Và nghề chăn bò thuê, sống nhờ phân bò, đã như một cái phao cứu vớt họ giữa dòng nước xiết. Nhưng cũng chính nghề này đã đẩy 5 mảnh đời vào chỗ bĩ cực của cuộc đời.
Mất đi ánh sáng của đôi mắt từ lâu, vợ thì đau ốm triền miên, cuộc sống của vợ chồng ông Lo phần lớn đều phụ thuộc vào 3 đứa con. Ông Lo cho biết, trụ cột của gia đình ông là cậu con trai lớn Nguyễn Hữu Đăng (21 tuổi, trình độ 4/12). Đăng là người đứng ra nhận hợp đồng chăn thuê 60 con bò và hàng ngày anh cùng với 2 cậu em song sinh (17 tuổi, chưa tốt nghiệp cấp I) đứng ra chăm nom đàn bò.
Hàng năm, chủ nhân của đàn bò trả công cho gia đình ông Lo 250.000 đồng/con bò/năm; ngoài ra, gia đình ông Lo còn có thêm thu nhập bằng việc bán phân của 60 con bò này với số tiền thu được khoảng hơn 50 triệu đồng/năm. Nghề này không thể làm giàu, lại phải sống chung với mùi hôi hám của phân bò, nhưng nó giúp gia đình ông Lo không còn phải chịu cảnh thiếu ăn.
Kể về cái nghề của gia đình mình, anh Đăng cho biết, hợp đồng ký kết giữa chủ bò và người chăn thuê có 2 loại: Nuôi rẽ (khi một con bò mẹ đẻ được 2 con bê, thì chủ bò lấy 1 con bê, người nhận nuôi sẽ được trả công 1 con bê); loại thứ 2 là trả tiền thuê theo đầu bò và người nhận nuôi có thêm khoản thu nhập nhờ lượng phân bò bán được. Theo cam kết, khi bò chết vì dịch bệnh, thiên tai nếu còn xác thì người nuôi thuê không phải đền. Nếu mất bò và mất xác thì người nuôi phải đền bò hoặc tiền cho chủ. Vì vậy, những người ở đây xem những con bò như sinh mạng của mình.
“Cứ khoảng 8 giờ sáng hàng ngày, anh em tôi thay phiên nhau lùa bò ra bãi chăn, đến tối bò no đẫy bụng mới lùa về, người ở nhà thì xúc phân ra phơi. Có những hôm trời mưa bão, chúng tôi vẫn phải luồn rừng chặn bò, chỉ sợ chúng lạc mất. Có lần bò của chúng tôi bị lạc, chúng tôi phải đi tìm mấy ngày mới thấy, nếu không thì lấy tiền đâu mà đền cho chủ”, anh Đăng kể.
Cũng gắn với nghề chăn bò thuê được 8 năm nay, anh Nguyễn Kim Tuấn (46 tuổi, vốn quê ở tỉnh Thừa Thiên Huế) cho biết, “xóm cao bồi” này có hơn 6.000 con bò, với khoảng 40 trại, mỗi trại có từ 60-100 con. Trước đây, nghề chăn bò thuê này khá dễ dàng, nhưng bây giờ rất cơ cực và phức tạp do rừng bị phá nhiều, những đám rẫy thi nhau mọc lên khiến bãi chăn bò bị thu hẹp dần. Vì vậy, họ phải lùa bò đi chăn xa hơn khiến lượng phân bị giảm do rơi rớt trên đường. Đặc biệt, bò rất dễ đi lạc vào rẫy nhà dân, nếu bị phát hiện sẽ bị chủ rẫy phạt bằng cách chặt chân, chặt đuôi bò. Chưa kể đến nạn trộm cắp bò hiện nay cũng xảy ra nhiều hơn, với hành vi và thủ đoạn ngày càng táo tợn.
Tiếng là sống bằng nghề chăn bò thuê nhưng thực chất nguồn thu nhập chính của họ chính là những bãi phân bò hôi hám. “Mỗi năm gia đình tôi kiếm được 20 triệu đồng từ việc nhận chăn đầu bò, nhưng kiếm được khoảng 70 triệu đồng từ việc bán phân bò. Với số tiền này, vợ chồng tôi có thể yên tâm để nuôi 2 đứa con học hành, tuy công việc có vất vả và cả ngày phải chịu sống chung với mùi hôi hám của phân bò, nhưng ngửi mãi rồi cũng... quen”, anh Tuấn tâm sự.
Thiên Thư