"Chốt" cơ chế đặc biệt cho dự án đường vành đai 4 Hà Nội, vành đai 3 TPHCM

Quang Phong Như Quỳnh

(Dân trí) - Sáng nay (16/6), Quốc hội biểu quyết thông qua chủ trương đầu tư dự án đường vành đai 4 Hà Nội và dự án đường vành đai 3 TPHCM, với nhiều cơ chế đặc biệt.

Khởi công năm 2022, hoàn thành năm 2025

Dự án đường vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội có chiều dài khoảng 112,8 km, chia thành 7 dự án thành phần, thực hiện hình thức thu phí tự động không dừng trong khai thác, vận hành.

Sơ bộ tổng mức đầu tư của dự án là hơn 85.800 tỷ đồng. Trong đó nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025 là 41.860 tỷ đồng, bao gồm gần 19.400 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách trung ương trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025; nguồn vốn ngân sách địa phương là gần 22.500 tỷ đồng (TP Hà Nội gần 19.500 tỷ đồng, tỉnh Hưng Yên 1.000 tỷ đồng và tỉnh Bắc Ninh 2.000 tỷ đồng).

Trong giai đoạn 2026-2030, nguồn ngân sách nhà nước là hơn 14.500 tỷ đồng, nguồn vốn ngân sách địa phương là hơn 5.700 tỷ đồng (TP Hà Nội hơn 4.000 tỷ đồng, tỉnh Hưng Yên hơn 500 tỷ đồng và tỉnh Bắc Ninh 1.164 tỷ đồng). Vốn do nhà đầu tư thu xếp là gần 29.450 tỷ đồng.

Nghị quyết của Quốc hội xác định dự án cơ bản hoàn thành năm 2026 và đưa vào khai thác từ năm 2027.

Chốt cơ chế đặc biệt cho dự án đường vành đai 4 Hà Nội, vành đai 3 TPHCM - 1

Quốc hội biểu quyết thông qua chủ trương đầu tư Dự án đường vành đai 4 Hà Nội và Dự án đường vành đai 3 TPHCM sáng 16/6 (Ảnh: Quốc Chính).

Dự án đường vành đai 3 TPHCM có chiều dài 76,34km, chia thành 8 dự án thành phần theo hình thức đầu tư công; sơ bộ tổng mức đầu tư là gần 75.400 tỷ. Trong đó nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025 là hơn 61.000 tỷ đồng, bao gồm gần 31.400 tỷ đồng nguồn vốn ngân sách trung ương, gần 29.700 tỷ đồng nguồn vốn ngân sách địa phương (TPHCM gần 19.450 tỷ, Đồng Nai gần 1.600 tỷ đồng, Bình Dương hơn 7.800 tỷ đồng và Long An hơn 850 tỷ đồng).

Nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2026-2030 là hơn 14.300 tỷ đồng, bao gồm hơn 7.360 tỷ đồng nguồn vốn ngân sách trung ương, hơn 6.960 tỷ đồng nguồn vốn ngân sách địa phương (TPHCM hơn 4.560 tỷ đồng, Đồng Nai gần 370 tỷ đồng, Bình Dương hơn 1.830 tỷ đồng và Long An 200 tỷ đồng).

Dự án được thực hiện từ năm 2022, cơ bản hoàn thành năm 2025 và đưa vào khai thác từ năm 2026.

Áp dụng nhiều cơ chế đặc biệt

Nghị quyết của Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư dự án đường vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội và vành đai 3 TPHCM xác định việc triển khai, thực hiện được áp dụng các cơ chế, chính sách đặc biệt.

Đối với dự án đường vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội, Nghị quyết cho phép điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 là 14.250 tỷ đồng đã bố trí cho Bộ Giao thông vận tải (GTVT) giao về các địa phương để thực hiện dự án, trong đó TP Hà Nội là 8.400 tỷ đồng; Hưng Yên là 3.740 tỷ đồng và Bắc Ninh là 2.110 tỷ đồng.

Nghị quyết nêu rõ, cho phép sử dụng phần vốn nhà nước tham gia tối đa là 66% sơ bộ tổng mức đầu tư dự án. Trường hợp điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án trong thời gian Quốc hội không họp, Quốc hội ủy quyền Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. Trình tự, thủ tục, thẩm quyền thẩm định và quyết định đầu tư các dự án thành phần được thực hiện tương tự như đối với dự án nhóm A theo quy định của pháp luật về đầu tư công; giao Chủ tịch UBND TP Hà Nội phê duyệt dự án thành phần 3.

Với dự án đường vành đai 3 TPHCM, Nghị quyết cho phép điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 là 17.146 tỷ đồng đã bố trí cho Bộ GTVT giao về các địa phương để thực hiện dự án, trong đó TPHCM là 10.627 tỷ đồng, Đồng Nai là 856 tỷ đồng, Bình Dương là 4.266 tỷ đồng và Long An là 1.397 tỷ đồng.

Theo Nghị quyết, cho phép tăng tổng mức vốn trung hạn trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 từ nguồn vốn dự kiến tăng thu của các địa phương. Chính phủ chỉ đạo Bộ GTVT chủ trì, phối hợp Bộ Tài chính, các Bộ, cơ quan Trung ương, các địa phương liên quan xây dựng phương án thu hồi vốn đầu tư dự án (không bao gồm đường song hành - đường đô thị) hoàn trả vào ngân sách trung ương và ngân sách địa phương theo tỷ lệ vốn góp đầu tư dự án.

Trong 2 năm kể từ khi Nghị quyết được Quốc hội thông qua cả 2 dự án, cho phép người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định việc chỉ định thầu trong quá trình triển khai thực hiện dự án đối với các gói thầu tư vấn, các gói thầu phục vụ di dời hạ tầng kỹ thuật, các gói thầu thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Trình tự, thủ tục thực hiện chỉ định thầu thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu thầu.

Nghị quyết nêu rõ, cho phép trong giai đoạn triển khai dự án, nhà thầu thi công không phải thực hiện thủ tục cấp giấy phép khai thác mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường nằm trong hồ sơ khảo sát vật liệu xây dựng phục vụ dự án; việc khai thác mỏ khoáng sản quy định tại khoản này được thực hiện đến khi hoàn thành dự án.

Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội trong việc triển khai tổ chức thực hiện, quản lý và khai thác, vận hành dự án theo đúng Nghị quyết này và quy định của pháp luật có liên quan; đôn đốc, kiểm tra các địa phương được giao làm cơ quan chủ quản/cơ quan có thẩm quyền và chịu trách nhiệm về tiến độ, chất lượng dự án; quản lý, sử dụng vốn và các nguồn lực tiết kiệm, hiệu quả, phòng chống tham nhũng, tiêu cực; chỉ đạo các địa phương bảo đảm nguồn vốn thực hiện dự án;

Trường hợp tăng tổng mức đầu tư của dự án thành phần, địa phương được giao làm cơ quan chủ quản/cơ quan có thẩm quyền của dự án thành phần có trách nhiệm cân đối bổ sung nguồn vốn từ ngân sách địa phương để thực hiện dự án thành phần đó. Trường hợp giảm tổng mức đầu tư của dự án thành phần, ngân sách trung ương dự kiến bố trí cho dự án thành phần đó giảm tương ứng.