Câu chuyện của người lính trở về từ "địa ngục trần gian"
(Dân trí) - Sau 3 lần xin vào chiến trường cầm súng chiến đấu nhưng không được đồng ý, ông Trần Quang Nghiêm đã lấy dao lam cứa đầu ngón tay mình, lấy máu viết tâm thư xin được ra trận….
Một ngày tháng 7, chúng tôi về thị trấn Vĩnh Lộc, huyện Vĩnh Lộc (Thanh Hóa) gặp lại ông Trần Quang Nghiêm (84 tuổi) - người lính trở về từ trại giam Phú Quốc. Dù đã ở tuổi 84, thế nhưng ký ức những ngày chiến đấu, bị địch bắt giam, tù đày vẫn còn in hằn trong tâm trí ông, mỗi lần nhớ lại đoạn hồi ức ấy, bao giờ ông Nghiêm cũng khóc.
Giọt nước mắt của người lính vẫn rơi giữa thời bình, mang theo nhiều nỗi niềm sâu kín. Ông khóc bởi niềm tự hào vì những ngày tháng hoạt động cách mạng kiên cường, anh dũng. Ông khóc vì đồng đội đã ngã xuống và khóc cho cả những người may mắn trở về, giống như ông.
Chốn lao tù - "bản hùng ca" của máu và nước mắt
Năm 1965, khi đang làm Chánh văn phòng của Ty Giao thông Thanh Hóa, ông Nghiêm nhiều lần xin lãnh đạo cho được vào chiến trường trực tiếp cầm súng chiến đấu, thế nhưng do không có người thay vị trí công việc nên ông vẫn chưa được đáp ứng nguyện vọng.
Vào một đêm trăn trở không ngủ được, ông Nghiêm đã lấy dao lam cứa đầu ngón tay mình để viết bức tâm thư nói lên nguyện vọng. "Như hiểu lòng tôi, Giám đốc Ty Giao thông bấy giờ đã thay đổi quan điểm và chấp nhận", cựu binh Trần Quang Nghiêm xúc động kể lại.
Ngày 20/2/1965, thanh niên Trần Quang Nghiêm (27 tuổi) lên đường nhập ngũ, bỏ lại phía sau quê nhà với người vợ trẻ vừa kết hôn được 5 ngày và bố mẹ già. Ông được biên chế vào đơn vị C3, D10, E68, F351, được đào tạo sử dụng pháo Kachiusa (Liên Xô)…
Ông cùng đồng đội vào sinh ra tử, lập nhiều thành tích trên khắp các mặt trận. Đặc biệt là cuộc chiến vào Tết Mậu Thân năm 1968, đơn vị của ông hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà vẫn bảo toàn được lực lượng.
Ngày 5/11/1968, khi đang điều trị tại bệnh viện dã chiến thuộc huyện Điện Bàn (Quảng Nam), ông bị máy bay địch bắn trọng thương; sau đó bị địch bắt, bịt mắt, ném lên trực thăng đưa về trại giam Đà Nẵng. Từ đây bắt đầu những ngày "địa ngục trần gian" đối với người lính cộng sản Trần Quang Nghiêm.
"Mỗi ngày chúng hỏi cung tôi từ 20-30 lần, rồi tăng lên 40, 50 lần... Sau đó, thấy không khai thác được gì, chúng chuyển sang tra tấn. Chúng dùng kim cắm vào mười đầu ngón tay, quấn bông vào đầu kim, tẩm xăng đốt cho đến khi tôi bất tỉnh. Chúng lại dùng nước lạnh hắt vào mặt, nhúng đầu vào các thùng nước rồi tiếp tục hỏi cung...", ông Nghiêm nhớ lại ký ức kinh hoàng rồi đưa tay run run chỉ lên hàm răng giả, ông bảo toàn bộ răng hàm dưới cũng bị chúng tra tấn bằng cách nhổ hết, đôi tay bị run cũng là hậu quả của những đòn tra tấn ngày ấy.
Người lính Trần Quang Nghiêm không nhớ nổi trong thời gian ở tù, kẻ thù đã bao nhiêu lần dùng dùi cui, roi điện, roi da đánh ông tới thừa sống thiếu chết, nằm lả xuống sàn như cái xác vô hồn.
Giở đủ các đòn tra tấn, chúng chuyển sang giọng điệu phỉnh nịnh, dụ dỗ, mua chuộc để dò la tin tức về "quân giải phóng".
Nhưng ép cung đến cỡ nào ông Nghiêm vẫn kiên định một lời khai: "Tôi chỉ là cấp dưỡng". Sau thời gian dài không khai thác được gì, tháng 3/1969, ông cùng các chiến sĩ trong ngục giam được đưa lên tàu chuyển ra giam giữ ở đảo Phú Quốc.
Lấy máu xương nuôi ý chí cách mạng
Trong gần 4 năm ở nhà tù Phú Quốc, ông cũng như các chiến sĩ đã phải trải qua hàng trăm loại hình tra tấn man rợ, đẫm máu. Nhưng với một lòng kiên định, không gì có thể khuất phục, ông cùng các chiến sĩ thực hiện hai nhiệm vụ chính là đòi quyền dân sinh và dân chủ.
Thời điểm đó, ông Nghiêm được tổ chức tin tưởng, giao nhiệm vụ là cấp ủy, bí thư chi bộ trong ban lãnh đạo cuộc đấu tranh.
"Có những thời điểm chúng dùng súng đại liên bắn vào trại giam khiến hàng trăm người chết. Nhìn đồng đội của mình ngã xuống, lòng căm thù lại lớn hơn bao giờ hết. Nhiều phương án được anh em đưa ra để đấu tranh. Bắt đầu là tuyệt thực, mỗi bữa chúng tôi chỉ ăn một nhúm gạo rang, uống nước lã cầm hơi, nhiều chiến sĩ trong phân khu khi đó không một chút do dự, đã xung phong hy sinh thân mình để nêu cao tinh thần, chí khí chiến đấu.
Đó là khi chúng tôi cần hai người hành động nhưng có đến 12 người xung phong. Cuối cùng cấp ủy quyết định: Ai bắt trúng thăm hành động sẽ được nhận nhiệm vụ thiêng liêng này. Sau cùng hai người trúng thăm là anh Lê Bá Giao, tên trong tù là Phạm Văn Bình (quê Hoằng Hóa, Thanh Hóa) và Trần Nguyên Mạnh, tên trong tù là Trần Văn Nanh (quê Hậu Lộc, Thanh Hóa). Hai đồng chí sinh hoạt tại phòng số 6, do tôi làm trưởng phòng đã tự dùng dao mổ bụng mình, cắt dương vật ném vào mặt quản tù, uy hiếp chúng, châm ngòi nổ cho cuộc đấu tranh giành nhiều yêu sách", ông Nghiêm nghẹn ngào kể lại.
Ông cũng cho biết, từ đó các tù binh được tự nấu cơm, đào giếng, tập trung học văn hóa, nhưng cũng lợi dụng việc đào giếng để đào hầm vượt ngục. Học văn hóa nhưng là để triển khai nghị quyết, tuyên truyền cách mạng, bàn phương án đấu tranh, vượt ngục…
"Đêm đến, chúng tôi lại thay nhau đào con đường hầm dẫn ra khỏi bức tường thép gai. Dụng cụ chỉ là những chiếc thìa sắt nên đào cả mấy tháng mới xong. Có tổng 41 người vượt ngục thành công trở lại chiến trường tiếp tục cầm súng chiến đấu. Trong số này một nửa vượt bằng con đường hầm, một nửa trốn bằng cách ngồi vào những chiếc thùng phi đựng phân mang đi đổ", ông Nghiêm nhớ lại.
Ông bảo, tất cả mọi hoạt động trong tù đều được lên phương án và thành nghị quyết để anh em thực hiện.
Ngày 12/2/1973, theo tinh thần của Hiệp định Pari, sau gần 4 năm, các chiến sĩ cách mạng bị địch bắt và tù đày tại trại giam Phú Quốc được trao trả bên bờ sông Thạch Hãn. Cùng với các chiến sĩ tại Phân khu C - trại giam Phú Quốc, ông Nghiêm được trao trả ngay từ đợt 1.
Được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đưa về an dưỡng, chăm sóc, điều trị tại thị trấn Móng Cái (nay là thành phố Móng Cái, Quảng Ninh). Một năm sau đó, ông Nghiêm mới được đoàn tụ cùng gia đình trên mảnh đất quê hương.
Ngày ông về, người vợ tào khang vỡ òa trong niềm hạnh phúc. Bà con lối xóm, các đồng chí, đồng nghiệp ở cơ quan đến thăm hỏi, động viên rất đông. Có những cụ ông, cụ bà 90 tuổi vẫn chống gậy đến thăm, ôm chầm lấy ông mà khóc.
Dẫu thương tích chiến tranh vẫn đeo bám ông trong từng cơn đau đớn, ho, khó thở; dẫu ảnh hưởng nặng nề của chất độc da cam, gieo mầm bệnh lên những người con của ông (có người đã mất) nhưng ông luôn cảm thấy biết ơn cuộc đời đã cho ông được sống để có ngày trở về.
Ngoài những tấm huân chương, huy hiệu, danh hiệu được ông Nghiêm trân trọng bày biện trong nhà như: Huân chương Chiến công hạng Nhì, Huân chương kháng chiến hạng Nhất, Huy hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ và danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân cho các chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày tại trại giam Phú Quốc, thuộc tỉnh Kiên Giang", trong lòng ông vẫn mãi lưu giữ tấm huy chương cao quý, rạng ngời về tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng.