70% lao động không hợp đồng cần được bảo hiểm rủi ro

(Dân trí) - Chủ nhiệm UB Các vấn đề xã hội của Quốc hội Trương Thị Mai khuyến cáo mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp, vì hiện tới 70% lực lượng lao động làm việc kiểu “không hợp đồng”, nhiều rủi ro, cần hỗ trợ nhằm tăng tính bền vững.

Luật Việc làm được đưa ra thảo luận, cho ý kiến tại UB Thường vụ Quốc hội hôm nay, 11/4. Cơ quan đại diện Chính phủ trình dự án luật – Bộ LĐ-TB&XH, cho biết, Việt Nam mới có khoảng 33,8% lao động làm công ăn lương và vẫn còn khoảng gần 70% lao động không có quan hệ lao động, trong tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân. Do đó, việc ban hành Luật Việc làm nhằm góp phần phát triển đồng bộ các yếu tố của thị trường lao động.

Nội dung được tập trung thảo luận là chính sách bảo hiểm thất nghiệp. Theo tờ trình của Chính phủ, đối tượng tham gia và chính sách bảo hiểm thất nghiệp được đề cập trong dự thảo Luật Việc làm mới hơn so với quy định trong Luật Bảo hiểm Xã hội. Cụ thể, luật bổ sung quy định về chế độ hỗ trợ, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho người lao động nhằm thực hiện chính sách phòng rủi ro cho người lao động; mở rộng thêm phạm vi áp dụng cho đối tượng là người lao động không có quan hệ lao động.
 
70% lao động không hợp đồng cần được bảo hiểm rủi ro
Những người lao động không ràng buộc, làm việc trong những xưởng gia công nhỏ là đối tượng rất dễ rủi ro.

Thẩm tra dự thảo luật, UB Các vấn đề Xã hội của Quốc hội cho rằng việc mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp là cần thiết nhằm đạt mục tiêu về an sinh xã hội. Vì hiện cả nước có khoảng 2/3 lực lượng lao động không có quan hệ lao động. Do vậy, cần có những biện pháp để thu hút số lao động này tham gia loại hình bảo hiểm thất nghiệp nhằm tăng tính bền vững cho việc làm của họ trong điều kiện thị trường lao động đang phát triển.

Chủ nhiệm UB, bà Trương Thị Mai cũng lưu ý, việc mở rộng và quản lý các đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp đối với khu vực không có quan hệ lao động là khá phức tạp và quỹ bảo hiểm thất nghiệp dễ bị lạm dụng do những khó khăn trong việc xác định tình trạng thất nghiệp, công tác thu-chi, khả năng quản lý đối tượng hạn chế nên rất ít quốc gia thực hiện.

“Đến nay, chính sách bảo hiểm thất nghiệp đã triển khai thực hiện được hơn 3 năm, Chính phủ cần tổng kết, đánh giá để khắc phục những thiếu sót, tồn tại trong tổ chức thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Trên cơ sở đó, dự thảo Luật cần quy định các tiêu chí mang tính nguyên tắc đối với mô hình tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp và giao cho Chính phủ quy định cụ thể”- bà Mai đề nghị.

Về việc hỗ trợ ngân sách nhà nước vào Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp, bên cạnh trách nhiệm đóng bảo hiểm thất nghiệp do người lao động và người sử dụng lao động, dự thảo Luật quy định Nhà nước hỗ trợ tối đa 1% quỹ tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp và giao Chính phủ quy định cụ thể mức hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước.

Trong khi đó, UB Các Vấn đề xã hội cho rằng, trong thời kỳ đầu, nhà nước có thể hỗ trợ một phần cho người lao động để chính sách đi vào cuộc sống, nhưng khi chính sách bảo hiểm thất nghiệp đã ổn định, ngân sách Nhà nước sẽ không hỗ trợ thường xuyên cho quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Trường hợp Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp bội chi thì ngân sách Nhà nước hỗ trợ phần còn thiếu để đảm bảo cân bằng quỹ.

Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng lưu ý, việc xây dựng Luật phải đảm bảo tính khả thi sau khi ban hành cũng như đảm bảo tính thống nhất của Luật với các luật khác. Bà Phóng cũng yêu cầu cơ quan soạn thảo nghiên cứu làm rõ hơn chính sách, nguồn gốc, điều kiện thực hiện chính sách việc làm, nhất là về vấn đề tài chính.

Nhấn mạnh vai trò an sinh xã hội trong chính sách việc làm là rất quan trọng nhằm phòng ngừa rủi ro cho người lao động, Phó Chủ chị Quốc hội cho rằng, chính sách việc làm phải hướng đến mục tiêu việc làm bền vững cho người lao động, tạo cơ hội bình đẳng về việc làm cho mọi người trong xã hội, nâng cao trách nhiệm của nhà nước và xã hội đối với vấn đề việc làm, cải thiện điều kiện làm việc, thu nhập hợp lý và chất lượng việc làm tốt hơn cho người lao động.

P.Thảo