Góc tâm hồn

Mùa tôm đất

(Dân trí) - Bữa ấy tôi gặng xin mãi, ông Hói mới cho đi theo chấu tôm đất cùng ông. Buổi chiều, ông nhờ tôi kiếm cho một ít củi khô quanh vườn và dặn tôi ăn cơm cho sớm.

Chập tối, ông Hói lúc lắc cái bình hồ lô rượu bên hông, vai gánh nặng hai chùm đó lớn. Tôi theo sau vác bó củi, tay cầm một chùm đèn con và cái điếu cày cho ông. Chúng tôi tiến dần về phía sông Đập Tràn.

Ven sông, hoa xoan đã nở bung, nhả hương nồng nồng, màu hoa tím nhạt hòa với trời chiều thành một màu. Từng luồng muỗi mắt cũng bắt đầu vù vù chui ra từ đám lúa, cắn nheo nhéo vào da thịt. Tiếng chim tu huýt vẫn còn vọng lại từ những bụi bờ lau sậy.

Vừa đến nơi, ông cụ thắp đèn rồi đặt vào mỗi cái đó một chiếc. Những cái đó lớn tôi giơ tay cao mới chạm thấu đỉnh. Ông Hói kết đó từ những thanh nứa vót nhẵn, tròn hai bên, chuốt nhỏ dần về phía miệng cho đó được thoáng. Thân đó ôm lấy trỉ (đáy đó) vừa vặn, mở một lối chạy dọc từ đầu xuống chân. Ông gài thêm vào ba cái que nhỏ ở từng đoạn tạo thành cửa đó.

Đó đơm kiểu ngoe nỏ

Đó đơm kiểu ngoe nỏ, dưới sông đã giăng sẵn hai tấm lưới bắt ra từ đôi bờ, xuôi theo dòng nước chừng một đoạn rồi nối liền với hai tấm đăng chôn sẵn nhô lên giữa dòng sông.

Ông cụ cởi bỏ cái quần dài ra vứt trên bờ cỏ, chỉ mặc độc cái quần xà lỏn. Ông vén áo rồi cầm xốc cái vành đó lên cao, bắt đầu dầm mình trong dòng nước lạnh. Ông đặt đó nhẹ nhàng sau cửa đăng và sửa cho đó đứng vững. Trong lúc ông đặt đó, tôi đi quanh quất dọc bờ sông, men theo những bụi cây dại kiếm lá làm mồi rồi quẹt diêm nổi lửa.

Đám lá đạch khô cháy rừng rực, nổ lép bép. Đám muỗi mắt vo ve bay dạt đi trốn khói. Củi than đỏ hồng thì ông Hói cũng vừa kịp bước lên, người ướt sũng. Ông ngồi sát bên đống củi, xoè đôi bàn tay nhăn nheo ra sưởi ấm.

Đêm buông, tôi trèo tót lên cây phi lao già ngay cạnh cái chòi canh của ông. Gió từ sông thổi ùa vào, nghe vù vù. Tôi phóng mắt nhìn theo ngọn đèn trong từng cái đó đặt rắc rải. Những vệt sáng nhỏ nối liền thành một dải uốn khúc theo dòng sông. Cái đó cuối cùng chỗ Đập Tràn hoà vào con sông lớn ánh đèn dầu đã xa lắc xa lơ...

Một lát tôi tụt xuống, thấy người ông cụ đã khô hong.

- Nước sông to quá ông nạ.

- Bữa ni rứa là rặt rồi đó, bận trước nước ngập đầu ông tê.

Ông Hói lấy trong túi áo bao thuốc lào, dứt ra một ít vê tròn rồi tra vào ống điếu. Ông nhử lửa cho cháy rồi kéo một hơi dài thật ngọt "rít...". Ông ngửa cổ ra sau, mắt lim dim, nhả khói bồng bềnh.

- Ông Hói có sợ ma không?

Ông đằng hoắng, thản nhiên đáp ngụ ý như muốn trêu tôi:

- Ở đây làm chi có, dưới bờ đê tê tề ... may ra mới có!

Nhìn tôi có vẻ ớn lạnh nổi cả da gà, ông cười hóm hỉnh:

- Sợ chi con. Ta có làm chi hắn mô mà sợ. 
 
... Gà mới gáy dạo đầu, ông Hói bảo tôi xách cái đèn con theo. Ông chọn chỗ nông nhất để lội xuống thăm đó. Mẻ ấy chỉ được chừng mươi con nhưng con nào đáng con nấy, tươi rói, láng lẩy và chắc nịch. Dựng lại đó rồi tôi cùng ông trở về cái bếp "dã chiến" nướng tôm.

Tôm nướng cháy sém, đỏ ửng, thơm lừng. Bao muối tiêu gói trong vạt lá chuối ông cất kĩ trong túi áo giờ mới được dùng đến. Chấm một chút muối, cắn một miếng tôm nghe dòn tan, bùi và ngọt. Ông Hói dành cho tôi những con tôm to nhất, lại nhâm nhi, lại khề khà cùng lưu linh tửu...

"Trời mưa trời gió

 Vác đó đi đơm

 Chạy vô ăn cơm

 Chạy ra mất đó

 Kể từ ngày ai lấy đó, đó ơi

 Răng đó không phán qua nói lại đôi lời đây hay?"

Hát đến đó thì ông im bặt, chòm râu bạc phất phơ bay theo gió, cái bóng nhỏ gầy đổ chập chờn ra đất.

- Khuya rồi đi ngủ thôi. Cu con ngủ chớ có đạp màn không muỗi hắn "thịt" đó nghe chưa.

- Dạ vâng!

Tôi nhanh nhẹn khom người chui vào lều, trải chiếu, mắc màn. Ông Hói dập lửa xong thì vào nằm cạnh tôi. Tiếng gà cũng vừa vọng lên từ phía làng, tiếng ếch nhái liên hồi nghe mơ hồ, xa xăm ... Tôi dần chìm vào giấc ngủ.

Trời bảng lảng, vừa nghe chim tu huýt hoắng giọng, tôi trở dậy đi theo ông trút đó. Cái đó lớn vừa mới nâng lên khỏi mặt nước đã nghe tôm đất búng râm ran, soi sói. Những đám rạm to kềnh bò nghễnh ngãng, rồi tràu, chạch, lươn vàng hươm chen chúc.  

- Chà! Được bữa đậm rồi đây.

- Có khi mô được rắn không ông?

- Có, nhưng chỉ thỉnh thoảng thôi.

Bà Hói đầu đội cái nón cũ bạc màu, cắp cái mủng con bên hông đang gần đi vào chỗ quành khúc sông. Nhác thấy hai ông cháu bà liền cất giọng:

- Bữa ni tôm tép ra răng ông?

Ông Hói vừa trút tôm vào mủng cho bà vừa cười hớn hở:

- Cũng khá bà nạ. Bà mau đem ra chợ bán coi có kiếm được chút đỉnh không!

Tôm búng tanh tách, bà lấy bèn chuối tươi che lại rồi cười. Sắc trầu còn vương lại trên khoé môi, đo đỏ, nồng nồng. Vừa đi, bà vội quay lại dặn:

- Hai ông cháu nhanh về dùng cơm.

Chúng tôi vừa về tới ngõ đã nghe tiếng muối kêu lốp bốp trong cái nồi đất bà bắc trên bếp. Tôm được trút vào nồi, lát sau nước tôm chảy ra hòa với muối thành một dung dịch sền sệt ôm lấy con tôm. Bà bưng cả nồi lên xốc xốc cho tôm ăn muối rồi canh lửa liu riu cho muối ăn từ từ. Gần cạn hết nước, tôm chín đỏ và dậy mùi thơm bà nhắc nồi xuống.

Tôm dọn ra cùng một chén tương ớt. Ông Hói hãy còn thong thả chưa dùng cơm ngay. Ông gắp cho tôi mấy con tôm rồi giục ăn đi cho nóng. Tôi có "máu xấu đói" và chỉ chờ có vậy cho tôm vào miệng nhai rau ráu. Tôm giòn rụm, mới đầu nghe mằn mặn nhưng lát sau mới thấy ngọt, chắc và thơm bùi. Tôm đất rang muối ăn "vào" cơm quá!

Thời gian thoi đưa, cố nhân trở về cát bụi. Nhiều đêm, đoạn qua những con sông mấy câu thơ xưa lại trở về, ám ảnh và day dứt: "Kể từ ngày ai lấy đó, đó ơi. Răng đó không phán qua nói lại đôi lời đây hay?". Lòng như chùng xuống, thương sao những mùa đó ...

Xuyến Chi - Khánh Hồng