Nâng tầm báo chí thành nguồn lực chiến lược của đất nước trong kỷ nguyên số
(Dân trí) - Để báo chí thực sự trở thành trụ cột trong chuyển đổi số quốc gia, cần một tư duy chiến lược mới trong Văn kiện Đại hội XIV, định vị vai trò hạ tầng mềm, hiện đại hóa toà soạn, đội ngũ người làm báo.
Lời toà soạn: Khi trí tuệ nhân tạo (AI) và các nền tảng số đang thay đổi căn bản cách tin tức được sản xuất và tiêu thụ, báo chí Việt Nam đứng trước "ngã rẽ" của sự đổi mới toàn diện: Từ mô hình tòa soạn, phương thức truyền thông khoa học đến bài toán nhân lực. Làm thế nào để báo chí thực sự trở thành trụ cột của nền kinh tế số và xã hội số?
Góp ý cho văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIV, bài viết của Tiến sĩ Phan Văn Kiền - Viện trưởng Viện Đào tạo Báo chí và Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội - đưa ra một góc nhìn, coi báo chí là "hạ tầng mềm" của quốc gia, đồng thời đề xuất những giải pháp cụ thể về đào tạo và chính sách để báo chí bắt kịp nhịp đập của kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo.
Báo chí là "hạ tầng mềm" của quốc gia số
Trong suốt chiều dài lịch sử cách mạng, báo chí - truyền thông luôn giữ vai trò vừa là lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, vừa là nhịp cầu thông tin kết nối Đảng với nhân dân, Nhà nước với xã hội.
Bước vào giai đoạn phát triển mới, khi chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo (AI), khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo đã trở thành trụ cột tăng trưởng, nền báo chí Việt Nam đứng trước yêu cầu phải hiện đại hóa toàn diện, từ mô hình tổ chức, phương thức sản xuất, cấu trúc nội dung đến năng lực nhân sự.
Việc bổ sung những định hướng chiến lược về phát triển báo chí - truyền thông trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIV của Đảng sắp tới, vì thế càng mang tính cấp thiết, không chỉ để báo chí thích ứng với môi trường truyền thông mới mà còn để thực hiện sứ mệnh chính trị là xây dựng đồng thuận xã hội, thúc đẩy tri thức công dân và lan tỏa tinh thần đổi mới sáng tạo.

Tiến sĩ Phan Văn Kiền, Viện trưởng Viện Đào tạo Báo chí và Truyền thông (Ảnh: SJC).
Trước hết, cần khẳng định rằng báo chí - truyền thông không chỉ là một thiết chế tư tưởng, mà còn là “hạ tầng mềm” của quốc gia số. Thực tiễn chuyển đổi số trong thời gian qua cho thấy, công nghệ chỉ tạo ra giá trị khi người dân, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý có đủ thông tin và niềm tin để tham gia vào không gian số.
Điều này đặt báo chí vào vị trí then chốt trong việc trang bị kiến thức chuyển đổi số, giải thích chính sách, thúc đẩy kỹ năng số và hình thành văn hóa số toàn dân. Nhiều cơ quan báo chí lớn như báo Dân trí, VTV, VOV đã triển khai các tuyến nội dung chuyên sâu về chuyển đổi số quốc gia, qua đó giúp người dân hiểu hơn về định danh điện tử, dịch vụ công trực tuyến hay an ninh mạng.
Báo chí không chỉ truyền tải thông tin mà còn dẫn dắt nhận thức, xóa bỏ tâm lý e ngại công nghệ, tạo động lực để xã hội tham gia vào quá trình số hóa. Vì vậy, Văn kiện Đại hội cần chính thức xác định báo chí - truyền thông là một cấu phần quan trọng của hạ tầng quốc gia số, gắn với nhiệm vụ kiến tạo niềm tin xã hội và đồng hành với Chính phủ trong quá trình chuyển đổi số toàn diện.
Ứng dụng AI và chiến lược truyền thông khoa học
Một định hướng có ý nghĩa chiến lược khác là phát triển mạnh mẽ báo chí số và mô hình tòa soạn hội tụ. Chuyển đổi số trong báo chí không đơn thuần là số hóa quy trình tác nghiệp hay sử dụng thiết bị hiện đại, mà là tái cấu trúc toàn bộ mô hình vận hành.
Thực tế cho thấy các cơ quan báo chí đi đầu như Báo Nhân Dân, Thông tấn xã Việt Nam hay VietnamPlus đã xây dựng thành công tòa soạn hội tụ, tích hợp báo in, báo điện tử, truyền hình và mạng xã hội trên cùng hệ thống quản trị nội dung.

Các thầy cô Viện Đào tạo Báo chí và Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Ảnh: SJC).
Tại đây, mọi hoạt động từ lập kế hoạch, sản xuất, biên tập đến phân phối nội dung đều diễn ra đồng bộ, giúp tối ưu hóa quy trình và tăng năng suất.
Việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo hiện nay cũng đã đi vào thực tiễn, thể hiện qua các hệ thống gợi ý nội dung, phân tích xu hướng dư luận, tự động hóa sản xuất video ngắn hay hỗ trợ kiểm chứng thông tin.
Tuy nhiên, việc sử dụng AI trong báo chí đòi hỏi khung chuẩn đạo đức nghề nghiệp mới nhằm đảm bảo tính minh bạch, tránh lệ thuộc thuật toán và giữ vững bản sắc báo chí nhân văn. Đây là những vấn đề cần được xác định rõ trong Văn kiện để định hướng dài hạn cho quá trình hiện đại hóa tòa soạn.
Một lĩnh vực khác cần được đặt đúng tầm chiến lược là truyền thông khoa học - công nghệ. Trong bối cảnh khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo đang trở thành động lực then chốt của tăng trưởng, truyền thông khoa học phải được xem là nhiệm vụ chính trị quan trọng của báo chí.

Một tuyến bài về Nghị quyết 57 trên mục Công nghệ- báo Dân trí (Ảnh chụp màn hình).
Những năm gần đây, một số cơ quan báo chí như VTV với chương trình “Khoa học và Đời sống”, Báo Dân trí với chuyên mục AI và Internet, An ninh mạng trong mục “Công nghệ”, hay báo VietNamNet với loạt bài về AI và công nghệ cao đã tạo ra các sản phẩm truyền thông khoa học hấp dẫn, giúp công chúng tiếp cận các khái niệm phức tạp bằng ngôn ngữ trực quan.
Tuy vậy, truyền thông khoa học vẫn chưa xứng tầm với tiềm năng khoa học trong nước. Nguyên nhân chủ yếu là thiếu đội ngũ phóng viên chuyên trách am hiểu công nghệ, thiếu mạng lưới chuyên gia hỗ trợ thông tin và thiếu các mô hình truyền thông sáng tạo như video mô phỏng, podcast khoa học hay đồ họa tương tác.
Từ kinh nghiệm đào tạo tại Viện Đào tạo Báo chí và Truyền thông, tôi nhận thấy nhu cầu nâng cao năng lực truyền thông khoa học của sinh viên và phóng viên ngày càng lớn, thể hiện qua các lớp bồi dưỡng kỹ năng truyền thông AI, truyền thông đổi mới sáng tạo hay phân tích dữ liệu được Viện triển khai.
Đây là cơ sở thực tiễn để xác định truyền thông khoa học - công nghệ là hoạt động cần được ưu tiên, đồng thời khuyến khích hình thành hệ sinh thái báo chí - khoa học liên kết giữa các cơ quan báo chí, viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp công nghệ.
Gỡ "nút thắt" nhân lực và hoàn thiện cơ chế
Cùng với đổi mới nội dung, việc đào tạo người làm báo và truyền thông cần được nhìn nhận như một trụ cột chiến lược, bởi chất lượng nguồn nhân lực quyết định trực tiếp khả năng thực thi những định hướng lớn mà Đảng đặt ra cho nền báo chí quốc gia.
Việc đổi mới mô hình tòa soạn, tăng tốc chuyển đổi số hay mở rộng truyền thông khoa học sẽ khó đạt hiệu quả nếu đội ngũ phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên không có đủ nền tảng tri thức và năng lực tác nghiệp phù hợp với môi trường truyền thông mới.
Những trải nghiệm thực tế trong hoạt động đào tạo thời gian gần đây cho thấy sự chuyển biến rất rõ ở thế hệ sinh viên báo chí, khi họ trở nên chủ động hơn trong việc cập nhật công nghệ, khai thác dữ liệu và ứng dụng các nền tảng mới trong sản xuất nội dung.


Tuy nhiên, cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng sự phát triển nhanh của công nghệ, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo và các nền tảng số xuyên biên giới, đang đặt ra khoảng cách lớn giữa yêu cầu nghề nghiệp và năng lực thực tế của một bộ phận người làm báo hiện nay.
Nếu không có chiến lược đào tạo và bồi dưỡng mang tính hệ thống, đội ngũ báo chí rất dễ bị tụt hậu, phụ thuộc vào công cụ kỹ thuật và gặp khó khăn trong việc duy trì bản sắc nghề nghiệp.
Chính vì vậy, trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIV, bên cạnh việc xác định báo chí - truyền thông là hạ tầng mềm của quốc gia số, cần nhấn mạnh sâu sắc hơn yêu cầu chuẩn hóa và chiến lược hóa đào tạo báo chí.
Điều này không chỉ bao gồm đổi mới chương trình học theo hướng liên ngành, tăng cường kỹ năng số, đạo đức số và tư duy dữ liệu, mà còn phải có cơ chế gắn kết hiệu quả giữa cơ sở đào tạo, cơ quan báo chí và cơ quan quản lý nhà nước.
Cần có chính sách đầu tư dài hạn cho nghiên cứu truyền thông, thúc đẩy hợp tác quốc tế trong đào tạo báo chí và hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong giáo dục báo chí - truyền thông.
Đồng thời, cần đưa vào Văn kiện định hướng xây dựng chương trình bồi dưỡng định kỳ bắt buộc đối với đội ngũ phóng viên, biên tập viên, lãnh đạo cơ quan báo chí, nhằm đảm bảo lực lượng này luôn được cập nhật kiến thức, kỹ năng và chuẩn mực nghề nghiệp phù hợp với kỷ nguyên số.
Khi đào tạo được đặt đúng vị trí trong chiến lược chung của Đảng, báo chí Việt Nam sẽ có nền tảng nhân lực đủ mạnh để thực hiện trọn vẹn sứ mệnh chính trị, văn hóa và xã hội mà Đảng và nhân dân giao phó.
Trong môi trường số, nhà báo không chỉ viết tin, phỏng vấn hay ghi hình, mà phải thành thạo phân tích dữ liệu, sử dụng công cụ số, bảo mật thông tin và vận hành đa nền tảng.
Viện Đào tạo Báo chí và Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQG Hà Nội) và nhiều cơ sở đào tạo báo chí, truyền thông ở Việt Nam thời gian qua đã đưa vào chương trình học các học phần như báo chí dữ liệu, truyền thông đa phương tiện, công nghệ truyền thông số, báo chí trên thiết bị di động, truyền thông số và trí tuệ nhân tạo, phản ánh yêu cầu thực tiễn của ngành.

Sinh viên báo chí tham gia sản xuất sản phẩm báo chí dưới sự hướng dẫn của giảng viên, phóng viên (Ảnh: SJC).
Sinh viên được đưa vào môi trường mô phỏng tòa soạn hội tụ, tham gia sản xuất sản phẩm báo chí thực tế dưới sự hướng dẫn của giảng viên và các phóng viên giàu kinh nghiệm. Bên cạnh đó các cơ quan báo chí lớn cũng đã chủ động triển khai đào tạo nội bộ, như VTV với chương trình đào tạo kỹ năng số cho biên tập viên hay Thông tấn xã Việt Nam với các khóa tập huấn fact-checking (kiểm tra thực tế - PV) và an toàn số.
Không thể phát triển báo chí hiện đại nếu thiếu cơ chế, chính sách tương thích. Việc tăng cường tự chủ cho các cơ quan báo chí, song song với cơ chế đặt hàng - giao nhiệm vụ truyền thông, sẽ tạo điều kiện để báo chí chủ động tài chính, chuyên nghiệp hóa bộ máy và nâng cao chất lượng nội dung.
Mặt khác, môi trường truyền thông số đòi hỏi khung pháp lý mới về quyền sở hữu trí tuệ, bản quyền nội dung trên nền tảng số, quyền dữ liệu và cơ chế chia sẻ doanh thu giữa cơ quan báo chí với các nền tảng xuyên biên giới.
Một vấn đề quan trọng khác là nâng cấp hệ thống truyền thông chính sách của Nhà nước theo hướng hiện đại, minh bạch và tương tác hai chiều.

Sinh viên Viện Đào tạo Báo chí và Truyền thông tác nghiệp thiệt hại do cơn bão Yagi năm 2024 (Ảnh: SJC).
Việc ứng dụng phân tích dư luận số trong quá trình xây dựng và điều chỉnh chính sách cần được đẩy mạnh, thay vì chỉ dựa vào báo cáo truyền thống. Các mô hình trung tâm truyền thông chính sách tại một số bộ, ngành như Bộ Khoa học và Công nghệ thời gian qua đã cho thấy hiệu quả rõ rệt trong việc truyền thông các chương trình lớn, đặc biệt là chiến lược chuyển đổi số và chương trình đổi mới sáng tạo quốc gia.
Từ những phân tích trên, có thể thấy báo chí - truyền thông đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò trung tâm trong sự phát triển của quốc gia trong kỷ nguyên số. Báo chí không chỉ truyền tải thông tin mà còn tạo dựng tri thức công dân, thúc đẩy văn hóa số, lan tỏa tinh thần đổi mới sáng tạo và củng cố niềm tin xã hội.
Những định hướng quan trọng cần được thể hiện rõ trong Văn kiện Đại hội Đảng lần này bao gồm: Xác định báo chí là hạ tầng mềm của quốc gia số; hiện đại hóa toàn diện mô hình tòa soạn hội tụ; đặt truyền thông khoa học - công nghệ ở vị trí chiến lược; nâng cao chất lượng đội ngũ người làm báo; và hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển báo chí số.
Nếu được triển khai bài bản và đồng bộ, những định hướng này sẽ tạo nền tảng để báo chí Việt Nam phát triển bền vững, chuyên nghiệp, nhân văn và hội nhập, đủ năng lực đồng hành cùng đất nước trong tiến trình xây dựng xã hội số, kinh tế số và công dân số.





















