Vì sao cuộc chiến tranh Syria không thể có hồi kết?
Theo các chuyên gia, cuộc chiến tranh Syria sẽ ngày càng tồi tệ hơn và sẽ kéo dài hơn những cuộc nội chiến trường kỳ nhất trong lịch sử.
Theo các chuyên gia về chiến tranh dân sự, có một cơ số nguyên nhân khiến Syria là bài toán cực kỳ hóc búa, khác lạ so với những cuộc chiến tranh tương tự trong lịch sử.
Có một sự thật cơ bản về cuộc nội chiến Syria khó thay đổi: đó là mọi nỗ lực giải quyết dường như vô hiệu. Bất chấp vô số cuộc tấn công, nhiều hội nghị hoà bình và các hoạt động can thiệp của các nước, bao gồm cả chiến dịch tấn công tuần qua của Thổ Nhĩ Kỳ vào một thị trấn biên giới của Syria, chiếc kim duy nhất dường như chuyển động chỉ là để đong đếm sự đau khổ ngày càng tồi tệ hơn của người dân Syria.
Các công trình nghiên cứu hàn lâm về nội chiến đã tiết lộ lý do vì sao cuộc chiến tranh Syria không thể có hồi kết. Những xung đột tương tự thường kéo dài gần một thập kỷ, gấp đôi thời gian cuộc chiến ở Syria hiện nay. Song có nhiều yếu tố cho thấy cuộc xung đột tại Syria có thể kéo dài hơn thông lệ, bạo lực hơn và khó có điểm dừng. Đó là tất cả những gì đang hiện hữu tại Syria.
Các cuộc tấn công can thiệp của nhiều nước với mục đích góp phần kết thúc chiến tranh tại Syria song trên thực tế lại làm tình hình trở nên nan giải, bế tắc với bạo lực bộc phát gia tăng và các nẻo đường dẫn đến hoà bình đều khép lại.
Syria hiện đang là một bãi chiến trường vô cùng phức tạp với sự tham gia của nhiều bên thay vì chỉ có hai bên, chính vì vậy khó có thể tìm ra cách chấm dứt chiến tranh nơi đây.
Cuộc xung đột không hề kiệt quệ
Hầu hết các cuộc nội chiến sẽ chấm dứt khi một bên thua. Một bên bị đánh bại về mặt quân sự hay cạn kiệt vũ khí hoặc mất đi sự hỗ trợ của nhân dân nên từ bỏ cuộc chiến. Khoảng 1/4 các cuộc nội chiến trong lịch sử chấm dứt bằng một hiệp ước hoà bình và thường vì cả hai bên đều kiệt quệ.
Điều đó cũng đã từng xảy ra tại Syria. Các lực lượng tham chiến chính ở đây bao gồm quân chính phủ và các lực lượng nổi dậy bắt đầu giao tranh vào năm 2011. Theo đánh giá, cả hai đều thực sự yếu kém và không thể chiến đấu lâu dài bằng thực lực của mình.
Song vấn đề nằm ở chỗ các bên tham chiến này không dựa vào chính mình. Mỗi bên đều có sự hậu thuẫn của các cường quốc lớn gồm: Mỹ, Nga, Iran, Saudi Arabia và hiện nay là Thổ Nhĩ Kỳ. Hoạt động can thiệp của các nước này đã làm ngưng các quy luật tự nhiên thông thường. Trong khi đó, các lực lượng có thể làm chậm bế tắc của cuộc chiến lại thiếu vắng, nên kết quả là cuộc nội chiến Syria được thúc đẩy theo chiều hướng kéo dài hơn là có thể dừng lại.
Quân đội chính phủ và phiến quân được nước ngoài tiếp trợ và điều đó có nghĩa là nguồn khí tài của họ không bao giờ cạn kiệt. Các bên này còn nhận được sự ủng hộ chính trị từ chính phủ các nước vốn không cảm nhận được ngay cái giá của chiến tranh như những người dân địa phương (những nạn nhân mà có thể không còn sự lựa chọn nào khác phải đứng dậy, thúc đẩy hoà bình để chấm dứt đau thương cho chính mình).
Còn đối với các nước giàu có, trang trải các phí tổn về nhân lực và vật lực chỉ là chuyện nhỏ. Theo Giáo sư James D. Fearon thuộc trường đại học Standford, nhiều công trình nghiên cứu cho thấy "nếu có sự can thiệp bên ngoài nhằm vào cả hai phía thì xung đột sẽ kéo dài hơn đáng kể”.
Cuộc chiến không thể phân thắng bại
Các nước bảo trợ không chỉ làm triệt tiêu các cơ chế hoà bình mà còn tự gia cố các cơ chế làm tăng tình trạng bế tắc.
Khi một bên mất cứ điểm, các nước ủng hộ của bên này tăng cường tham gia tấn công, gửi hàng tiếp tế hay hỗ trợ trên không để ngăn chặn bên mình ủng hộ thua trận. Rồi khi bên này bắt đầu giành thế thắng, các nước ủng hộ cho bên kia buộc phải nhập cuộc. Mỗi lần leo thang lại mạnh hơn đôi chút so với lần trước, sự tàn sát lớn hơn còn cán cân cơ bản của cuộc chiến thì không thay đổi.
Câu chuyện về cuộc nội chiến Syria đã diễn ra như vậy ngay từ lúc mở màn. Vào cuối năm 2012, khi quân đội Syria liên tiếp thất bại, Iran đã cử lực lượng can thiệp vào chiến trường này. Đến đầu năm 2013, khi các lực lượng của chính phủ Syria hồi phục, các nước giàu có thuộc vùng Vịnh tới tấp viện trợ cho các lực lượng nổi dậy. Một vài đợt sau đó, Mỹ và Nga nhảy vào cuộc.
Các cường quốc này đủ mạnh để đối trọng bất kỳ sự leo thang nào trên thực tế. Không bên nào có thể giành được một chiến thắng triệt để vì bên kia luôn có thể kháng cự và con tạo cứ tiếp tục xoay vần như vậy. Thậm chí những biến động tự nhiên trên các chiến tuyến có thể khơi mào cho đợt giao tranh khác.
Ví dụ năm 2015, Mỹ ủng hộ người Kurd Syria chiến đấu với Nhà nước Hồi giáo (IS). Khi lực lượng người Kurd lớn mạnh, điều này báo động Thổ Nhĩ Kỳ, nước đang phải vật lộn để dẹp sự nổi dậy của bộ tộc người Kurd sinh sống ở Thổ Nhĩ Kỳ. Tuần qua, Thổ Nhĩ Kỳ đã can thiệp để giành kiểm soát Jarabulus ở Syria được Mỹ hỗ trợ trong một nỗ lực nhằm ngăn chặn người Kurd Syria khỏi chiếm trước thị trấn này.
Giáo sư Barbara F. Walter thuộc trường đại học Carlifornia và là chuyên gia hàng đầu về nội chiến, nhận định: "Tình hình tại Syria có chiều hướng xấu đi và có thể tồi tệ hơn rất nhiều”.
Cơ cấu chiến tranh khuyến khích sự tàn bạo
Đất nước Syria đã chứng kiến liên tiếp các cuộc thảm sát bừa bãi nhằm vào dân thường từ tất cả các phía. Nguyên nhân thúc đẩy không phải bởi sự tàn nhẫn mà bởi điều mạnh hơn nhiều: các động cơ mang tính cơ cấu.
Trong hầu hết các cuộc nội chiến, các lực lượng chiến đấu phụ thuộc vào sự ủng hộ của nhân dân để thành công. "Nguồn nhân lực” này trong vai trò lực lượng nổi dậy kháng chiến theo cách gọi của các chuyên gia trao cho tất cả các bên động cơ bảo vệ dân thường và giảm thiểu tối đa tính chất hung bạo.
Các cuộc chiến tranh như Syria khi chính phủ và phe đối lập đều phụ thuộc nặng nề vào sự hỗ trợ nước ngoài sẽ chỉ gây ra tác động ngược lại. Đó là nhận định của ba nhà khoa học chính trị Reed M. Wood thuộc trường đại học bang Arizone, Jacob D. Kathman thuộc trường đại học New York và Stephen E.Ghent thuộc trường đại học North Calorina.
Vì các lực lượng chiến đấu của Syria dựa vào các nhà tài trợ nước ngoài hơn là vào quần chúng trong nước, nên họ có ít động cơ để bảo vệ dân thường. Trên thực tế, động cơ này biến dân chúng thành mối đe doạ tiềm tàng hơn là nguồn lực cần thiết. Những hình ảnh về cái chết thương tâm của các bà mẹ và trẻ em cho thấy nạn nhân của cuộc chiến tranh này, những người dân thường vô can là các mục tiêu đã được suy tính, bị giết không phải do sự quẫn trí hay trong cơn cuồng phong thịnh nộ mà là do sự tính toán có lý trí lạnh lùng.
Các cuộc tấn công bừa bãi nhằm vào dân thường đem lại ít rủi ro trong thời hạn gần và các lợi ích lớn lao: phá vỡ sự kiểm soát của địch thủ hay sự hỗ trợ cục bộ, làm dịu lắng các mối đe doạ tiềm tàng, cưỡng đoạt các nguồn lực...
Cho đến nay, các lực lượng thân chính phủ thường bị cáo buộc tiến hành hầu hết các cuộc tấn công nhằm vào dân thường, song các phe đối lập cũng tiến hành một số cuộc tấn công tương tự. Trong lực lượng nổi dậy, các nhóm nhỏ lẻ nào từ chối tấn công dân thường rơi vào tình trạng bất lợi so với các nhóm khác dám làm điều đó.
Mối lo sợ thất bại dẫn đến tình trạng dậm chân tại chỗ
Tình trạng bế tắc tại Syria còn do nỗi bất an gây nên. Không ai dám chắc một Syria hậu chiến tranh sẽ như thế nào và làm thế nào để chấm dứt chiến tranh? Song ai ai cũng có thể mường tượng ra một tình huống xấu hơn. Điều này tạo ra một tình trạng tiến thoái lưỡng nan, trong đó các lực lượng tham chiến ngày càng lo ngại hơn về khả năng trụ vững và vì điều này họ dám chấp nhận rủi ro để theo đuổi các mục tiêu to lớn hơn.
Theo Giáo sư Fearon: "Ngăn chặn bên kia chiến thắng nhiều hơn quan trọng hơn việc tự giành chiến thắng."
Mỗi quốc gia tham chiến đều hiểu rằng mình không thể thắng song vô cùng lo ngại và khó có thể chấp nhận một chiến thắng của bên kia. Ví dụ, Saudi Arabia và Iran coi Syria là đấu trường để tranh giành quyền lực trong khu vực và sự thất bại theo họ có thể nguy hiểm đến chế độ của chính mình.
Thậm chí nếu cuộc chiến tranh Syria gây thiệt hại cho tất cả các bên trong lâu dài và làm gia tăng chủ nghĩa cực đoan và tình hình bất ổn, thì những lo ngại trước mắt về sự thất bại kéo tất cả các bên tiến tới một thế trận hoà, mãi mãi không phân thắng bại.
Điều này càng trầm trọng bởi tính chất động cơ ra quyết định của các liên minh lỏng lẻo. Mỗi bên bao gồm một vài tác nhân có các chương trình và nhiệm vụ ưu tiên khác xa nhau.
Ví dụ, có cơ sở để tin rằng Nga muốn Tổng thống Syria Bashar al-Assad từ chức hay ít nhất đưa ra một vài nhượng bộ để đổi lấy hoà bình. Song Nga không thể ép buộc ông Assad làm điều đó hay có thể đơn giản rút lui khỏi Syria mà không từ bỏ những lợi ích của mình ở đó. Trong khi đó, ông Assad có thể muốn Nga triển khai can thiệp ở mức độ cao nhất để đem lại chiến thắng cho mình, điều mà Moscow chưa sẵn lòng đáp ứng. Kết quả là Tổng thống Assad vẫn tại vị và Nga chỉ can thiệp đủ mức cần thiết để bảo vệ chiếc ghế cho vị tổng thống này ở thời điểm hiện tại.
Các phe phái ở Syria được thành lập để chiến đấu chứ không phải để chiến thắng
Cả chính phủ Syria và các phe nổi dậy chống chính quyền hiện đều yếu kém, do đó họ thích tình trạng bế tắc hơn là bất kỳ chiến thắng nào có thể đạt được.
Các nhà lãnh đạo của chính quyền Syria hiện này chủ yếu xuất thân từ tộc người Alawite - vốn chỉ chiếm một phần nhỏ dân số nước này. Sau nhiều năm chiến tranh kéo dài, những người Alawite lo sợ rằng họ có thể đứng trước nguy cơ tuyệt chủng nếu ông Assad không giành được một chiến thắng hoàn toàn.
Song chiến thắng này xem ra cực kỳ khó có thể xảy ra, một phần vì tình trạng thiểu số của người Alawite cho họ quá ít sự hỗ trợ để lập lại trật tự bằng mọi cách ngoài bạo lực. Vì thế, các nhà lãnh đạo Syria tin rằng bế tắc là cách duy nhất bảo vệ sự an toàn của người Alawite hiện nay, thậm chí điều này đảm bảo cho tương lai lâu dài của họ.
Trong khi đó, phe đối lập ở Syria lại yếu theo kiểu khác. Phe này bị chia năm sẻ bảy và đây được cho chính là nguyên nhân khiến cuộc nội chiến có chiều hướng kéo dài và ít có khả năng chấm dứt trong hoà bình.
Một công trình nghiên cứu về mọi nỗ lực kiến tạo hòa bình của Liên Hợp Quốc (LHQ) kể từ năm 1945 cho thấy, tổ chức này đã thành công trong việc giải quyết 2/3 số cuộc nội chiến nếu chỉ có sự tham gia của hai bên nhưng chỉ thành công 1/4 với các cuộc nội chiến nhiều bên.
Chiến trường Syria là một đa giác phức tạp với sự tham gia của một tập hợp các nhóm nổi dậy, bao gồm những người Hồi giáo ôn hoà và cực đoan; các thành viên của Al Qaeda và IS; các lực lượng của chính quyền Syria và những lực lượng bên ngoài như dân quân người Shiite từ Lebanon (phong trào Hezbollah) và các chiến binh nước ngoài tham gia dưới danh nghĩa thánh chiến (jihad).
Mỗi phe phái đều có mục đích riêng, do đó nó khiến cho cơ hội đạt được bất kỳ thỏa ước hòa bình nào đều bị thu hẹp. Mỗi bên còn có động cơ cạnh tranh với các nhóm khác để giành nguồn lực trong chiến tranh và để đạt được những nhượng bộ về sau.
Đây chính là lý do tại sao các phe đối lập thường có xu hướng thất bại. Thậm chí nếu họ có thể lật đổ được chính phủ thì cuối cùng họ thường rơi vào một cuộc chiến tranh thứ hai với nhau.
Những nguy hiểm của chiến thắng
Cách duy nhất để phá vỡ sự bế tắc này là một bên là nổi dậy vượt khả năng đối chọi của bên kia. Vì Syria thu hút sự tham gia của các cường quốc quân sự hàng đầu thế giới như Nga và Mỹ, bế tắc chỉ có thể khai thông bằng một cuộc tấn công tổng lực.
Trong trường hợp tốt nhất, điều này đòi hỏi một kịch bản hơi giống kế hoạch chiếm đóng Iraq và Afghanistan trong nhiều năm trời của Mỹ. Tuy nhiên trong trường hợp xấu nhất, tiến vào một vùng chiến sự nơi có quá nhiều đối thủ nước ngoài tham chiến có thể châm ngòi cho một chiến tranh khu vực.
Cách khác để có thể chấm dứt các cuộc chiến tranh như vậy là một nước bảo trợ thay đổi chính sách ngoại giao của mình và quyết định rút quân. Điều này cho phép bên khác nhanh chóng chiến thắng. Song ở Syria, vì mỗi bên đều được hậu thuẫn bởi nhiều nước khác nhau nên mỗi nước bảo trợ cho một bên cần phải cùng từ bỏ sự hỗ trợ này.
Thiếu vắng đội ngũ giữ gìn hoà bình
Các thoả thuận hoà bình thường thành công hay thất bại bởi câu hỏi ai sẽ kiểm soát các lực lượng quân sự và an ninh. Ở Syria, đây là có thể là câu hỏi không có lời đáp.
Sau một cuộc chiến tranh tàn bạo như Syria - nơi trên 400.000 thiệt mạng cho đến nay, các chiến binh khá lo sợ rằng họ sẽ bị thảm sát nếu bên kia giành được nhiều quyền lực hơn. Song một thoả thuận có thể cho các bên quyền hạn quân sự như nhau cũng tạo ra rủi ro cao là chiến tranh có thể tái diễn bởi nó cho phép các phiến quân duy trì vũ trang và độc lập của mình, một bài học của thế giới từ cuộc chiến tranh Lybia.
Đồng thời, cần phải có một lực lượng vũ trang để lập lại an ninh và xoá sổ bất kỳ các "chúa tể chiến tranh" nào còn sót lại.
Thường thì, giải pháp là một nước hay một tổ chức bên ngoài như LHQ cắt cử các đội quân giữ gìn hoà bình. Các lực lượng này duy trì kiểm soát các bên trong giai đoạn quá độ tiến đến hoà bình và đảm bảo an ninh cơ bản theo cách không khuyến khích bất cứ bên nào tái vũ trang.
Song liệu có nước nào dám xung phong đưa công dân của mình đóng quân ở Syria không hạn định, đặc biệt sau những trải nghiệm của Mỹ ở Iraq? Bất kỳ lực lượng can thiệp nước ngoài nào cũng có thể trở thành mục tiêu cho các jihad khủng bố và rất có thể phải đối mặt với làn sóng nổi dậy nhiều năm tại Syria mà có thể gây thiệt mạng hàng trăm hay hàng nghìn người.
Trôi dạt đến thảm hoạ
Theo nghiên cứu năm 2015 của Giáo sư Walter và chuyên gia về Trung Đông Kenneth M.Pollack: "Chiến thắng quân sự dứt điểm trong một cuộc nội chiến thường đạt được với cái giá là bạo lực khủng khiếp (thậm chí dẫn đến diệt chủng) đối với bên thất thủ, bao gồm dân thường”.
Điều này có thể dẫn đến các xung đột hoàn toàn mới ở Trung Đông. Các chuyên gia cho rằng: "Các nhóm chiến thắng trong một cuộc chiến tranh dân sự đôi khi còn cố gắng dùng sức mạnh mới khai quật của mình để chống lại các nước láng giềng, dẫn đến chiến tranh liên quốc gia."
Đây không phải là điều bất cứ ai mong muốn song lại là chiều hướng trong đó nhiều bên trong và ngoài nước tham chiến đang thao túng Syria, đất nước mà những ngày tăm tối nhất có thể vẫn đang ở phía trước./.
Theo CTV Xuân Hương/VOV.VN/NY Times