“Trung Quốc vi phạm luật quốc tế khi xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam”
(Dân trí) - Phó Giáo sư, Tiến sĩ Kentaro Nishimoto tại Đại học Tohoku (Nhật Bản) cho rằng việc tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc tiến hành các hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là sự vi phạm rõ ràng các quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.
Ông Kentaro Nishimoto, Phó Giáo sư, Tiến sĩ ngành luật quốc tế thuộc Đại học Tohoku, đã có cuộc trao đổi với phóng viên Dân Trí liên quan tới vụ việc Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Trung Quốc trong tháng này đã đưa tàu khảo sát Hải Dương 8 và các tàu hải cảnh xâm phạm Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Ông đánh giá như thế nào về các hành động phi pháp của Trung Quốc? Các hành động này sẽ tác động ra sao tới tình hình Biển Đông?
Việc tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc tiến hành các hoạt động trong vùng EEZ của Việt Nam là sự vi phạm rõ ràng các quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Những hành động như vậy nên bị lên án như một sự vi phạm trắng trợn quy tắc rất cơ bản của luật pháp quốc tế. Những hành động bất hợp pháp này sẽ chỉ càng làm gia tăng căng thẳng, vốn đã dâng cao, tại Biển Đông.
Theo ông, Trung Quốc có mục đích gì khi tiến hành các hoạt động như vậy tại khu vực phía nam Biển Đông, xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam?
Tôi tin rằng động cơ phía sau các hành động của Trung Quốc vẫn chưa rõ ràng ở thời điểm hiện tại. Đây có thể không hẳn là hành động mang động cơ chính trị nhằm thể hiện yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông. Đó có thể là hành động mang định hướng thương mại, đi cùng với ý đồ của chính phủ Trung Quốc nhằm bảo vệ cái mà họ xem là lợi ích của họ.
Ông có cho rằng hành động của Trung Quốc gần đây sẽ dẫn tới việc trì hoãn đàm phán về Bộ Quy tắc Ứng xử của các bên trên Biển Đông (COC) giữa Trung Quốc và ASEAN hay không?
Mặc dù tình hình hiện nay liên quan tới tàu khảo sát của Trung Quốc là rất nghiêm trọng, nhưng tôi không nghĩ điều đó sẽ có ảnh hưởng lớn tới việc đàm phán COC, bởi vì các cuộc đàm phán lâu nay vẫn diễn ra bất chấp tình hình khó khăn chung tại Biển Đông. Tuy nhiên, tôi nghĩ các sự việc gần đây là bằng chứng rõ ràng cho thấy, việc xây dựng bộ quy tắc ứng xử sẽ không có nhiều ý nghĩa nếu không đảm bảo một cam kết từ phía Trung Quốc về việc tuân thủ các quy tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.
Theo ông, Việt Nam nên làm gì để đối phó với Trung Quốc trong trường hợp này? Vai trò của cộng đồng quốc tế và ASEAN trong vấn đề này như thế nào?
Việt Nam nên tiếp tục thể hiện rõ với Trung Quốc, thông qua công hàm ngoại giao phản đối cũng như nỗ lực để ngăn chặn các hoạt động trên biển, rằng những hành động vi phạm quyền chủ quyền của Việt Nam như vậy là không thể chấp nhận được. Cộng đồng quốc tế cũng nên thể hiện rõ rằng, đây là hành động vi phạm luật pháp quốc tế.
Vai trò của ASEAN là quan trọng nhất trong trường hợp này. ASEAN nên đi đến thống nhất một lập trường rất cơ bản rằng, luật pháp quốc tế nên được tôn trọng và ASEAN sẽ không chấp nhận bất kỳ hành động nào đi ngược lại với lập trường đó.
Việt Nam có thể sử dụng luật pháp quốc tế để phản đối và ngăn chặn các hành vi trái phép của Trung Quốc hay không thưa ông, đặc biệt trong bối cảnh Trung Quốc không chấp nhận phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế hồi năm 2016, trong đó tòa bác bỏ yêu sách "đường chín đoạn" gây tranh cãi của Bắc Kinh trên Biển Đông?
Mặc dù Trung Quốc không chấp nhận giải quyết tranh chấp dựa trên luật pháp quốc tế, nhưng tôi nghĩ luật quốc tế vẫn có vai trò nhất định. Chẳng hạn, nhờ phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế năm 2016, chúng ta có thể xác định các hành động hiện tại của Trung Quốc được tiến hành dựa trên yêu sách vô giá trị theo luật pháp quốc tế, và xâm phạm rõ ràng quyền chủ quyền của Việt Nam.
Việt Nam có thể sử dụng luật pháp quốc tế bằng việc tuyên bố với cộng đồng quốc tế rằng, đây không chỉ là vấn đề tranh chấp song phương giữa hai nước, mà còn liên quan tới hành vi không tôn trọng luật pháp quốc tế của một nước lớn, và đó là điều mà tất cả các nước cần quan ngại.
Đưa vấn đề này ra luật pháp quốc tế cũng giúp các nước bên ngoài khu vực dễ dàng hơn trong việc thể hiện lập trường của họ, ngược lại với trường hợp chỉ đóng khung trong tranh chấp song phương và xem đây là tranh chấp về lợi ích dầu khí trong bối cảnh chính trị khu vực diễn biến phức tạp.
Việt Nam có thể tiếp bước Philippines và khởi kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế hay không, thưa ông?
Việc triển khai hành động pháp lý bằng cách sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp theo UNCLOS là một phương án cho Việt Nam. Việt Nam có thể đề nghị Tòa trọng tài quốc tế tuyên bố rằng các hành động của Trung Quốc là hành vi vi phạm UNCLOS và nhiều khả năng Việt Nam sẽ nhận được phán quyết ủng hộ từ tòa.
Việt Nam cũng có thể đề nghị Tòa trọng tài quốc tế đưa ra giải pháp tạm thời, yêu cầu Trung Quốc dừng các hành động phi pháp trên Biển Đông. Những biện pháp như vậy sẽ gia tăng thêm sức ép chính trị đối với Trung Quốc.
Tuy nhiên, như những gì chúng ta đã thấy với trường hợp của Philippines, việc gia tăng sức ép với Trung Quốc chỉ là điều chúng ta có thể kỳ vọng. Trung Quốc có thể phớt lờ phán quyết, do vậy tranh chấp khó có thể giải quyết chỉ bằng một phán quyết của tòa án quốc tế. Mặt khác, hành động pháp lý cũng dẫn tới những tác động khác và có thể ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Ông đánh giá như thế nào về vai trò của Mỹ trong việc hạ nhiệt căng thẳng và kiềm chế các hành động của Trung Quốc trên Biển Đông?
Tôi nghĩ Mỹ có thể đóng vai trò quan trọng trong việc kiềm chế các hành động của Trung Quốc trên Biển Đông. Cho tới khi những nỗ lực nhằm đạt được một thỏa thuận với Trung Quốc dựa trên việc tôn trọng luật pháp quốc tế thực sự thành công, việc đối phó với tham vọng của Trung Quốc cần có sự giúp đỡ của cường quốc bên ngoài. Việc tìm cách tạo ra sự cân bằng giữa các nước lớn có lẽ là giải pháp hiệu quả duy nhất trong việc kiểm soát tình hình trong ngắn hạn.
Thành Đạt