Mỹ đẩy mạnh chiến lược đối phó tham vọng của Trung Quốc ở Biển Đông
(Dân trí) - Các máy bay ném bom từ Chiến tranh Lạnh được kết hợp với các tên lửa hiện đại giúp Mỹ tăng cường sức mạnh đối phó với tham vọng của Trung Quốc ở Biển Đông.
Ngày 21/7, 2 máy bay ném bom B-1B của Không quân Mỹ cất cánh từ đảo Guam, hướng về phía tây, qua Thái Bình Dương tới Biển Đông. 2 chiếc B-1B bay qua tàu sân bay USS Ronald Reagan của Mỹ và các tàu hộ tống đang tập trận tại biển Philippines.
Chiến dịch này là một phần trong thách thức ngày càng tăng của chính quyền Tổng thống Donald Trump với Trung Quốc nhằm phản đối yêu sách chủ quyền phi lý Bắc Kinh tại Biển Đông.
Trong khi các quan chức cấp cao của chính quyền Trump đưa ra hàng loạt các tuyên bố, bao gồm cả ngoại giao và cứng rắn, nhằm vào Trung Quốc, Bộ Quốc phòng Mỹ đã sử dụng uy lực của các máy bay ném bom tầm xa, được vũ trang hạng nặng để cảnh báo tham vọng của Bắc Kinh trong việc kiểm soát các vùng biển gần lãnh thổ.
Kể từ cuối tháng 1, các máy bay ném bom B-1B và B-52 của Mỹ, thường bay theo cặp, đã thực hiện khoảng 20 nhiệm vụ tại các vùng biển quan trọng, gồm Biển Đông, biển Hoa Đông, biển Nhật Bản.
Theo giới phân tích quân sự, các hoạt động này nhằm gửi thông điệp rõ ràng rằng: Mỹ có thể đe dọa các hạm đội cũng như các mục tiêu trên bộ của Trung Quốc vào bất kỳ thời điểm nào, và từ các căn cứ ở xa mà không cần di chuyển các tàu sân bay hay tàu chiến đắt đỏ vào trong tầm ngắm kho tên lửa khổng lồ của Bắc Kinh.
Bộ đôi "sát thủ"
Nhằm đối phó với sức mạnh ngày càng tăng của quân đội Trung Quốc, Lầu Năm Góc đã kết hợp những vũ khí lâu đời nhất và những vũ khí mới nhất: máy bay ném bom từ thời Chiến tranh Lạnh và tên lửa tàng hình tiên tiến.
Máy bay ném bom siêu thanh B1-B lần đầu được đưa vào hoạt động từ năm 1986, còn chiếc mới nhất trong phi đội B-52 được chế tạo dưới thời chính quyền Kennedy. Cả hai “ngựa thồ” này đều có thể mang được khối lượng lớn vũ khí tấn công chính xác.
Một máy bay B-1B có thể mang 24 tên lửa chống hạm tầm xa tàng hình mới. Các tên lửa này được đưa vào sử dụng từ năm 2018 và có thể tấn công các mục tiêu ở khoảng cách lên tới 600 km.
“Một chiếc B-1 có thể mang khối lượng vũ khí tương đương số vũ khí mà toàn bộ nhóm tác chiến tàu sân bay có thể mang trong 1 ngày”, Tướng không quân về hưu David Deptula, Viện trưởng Viện Nghiên cứu không gian vũ trụ Mitchell có trụ sở tại Washington, nhận định.
Theo ông Deptula, trong một cuộc khủng hoảng, các máy bay ném bom có thể được triển khai nhanh chóng.
“Phụ thuộc vào vị trí của chúng, các tàu có thể mất vài tuần mới đến được nơi. Nhưng nếu sử dụng máy bay ném bom, chúng có thể đáp trả chỉ trong vài giờ”, ông Deptula cho biết thêm.
Theo tướng Deptula, mục tiêu của Mỹ là ngăn chặn chiến tranh, đồng thời khẳng định “không ai muốn tham gia vào một cuộc xung đột với Trung Quốc”.
Các chiến lược gia quân sự phương Tây và Trung Quốc cảnh báo khó có thể kiểm soát một cuộc xung đột giữa hai cường quốc hạt nhân.
Trong trường hợp xảy ra xung đột, phản ứng nhanh chóng từ phi đội máy bay ném bom có thể đóng vai trò quan trọng trong lúc Mỹ và các đồng minh tăng cường lực lượng hải quân tiếp viện tới Thái Bình Dương để củng cố sức mạnh vượt trội của hạm đội hải quân Mỹ đồn trú trong khu vực.
Đại úy Veronica Perez, người phát ngôn lực lượng Không quân Thái Bình Dương của Mỹ, cho biết việc Không quân Mỹ tăng cường hoạt động của máy bay ném bom nhằm đảm bảo với các đồng minh và đối tác về cam kết của Washington đối với an ninh toàn cầu, ổn định khu vực cũng như một khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở.
“Mặc dù tần suất và phạm vi hoạt động của các chiến dịch là khác nhau tùy theo môi trường hoạt động hiện tại, nhưng Mỹ sẽ duy trì hiện diện quân sự liên tục và hoạt động thường xuyên trên khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”, bà Perez nhấn mạnh.
Kịch bản xung đột
Theo Reuters, trong một cuộc xung đột, các máy bay của Mỹ tại Tây Thái Bình Dương có thể nhắm mục tiêu tới các tàu chiến của Trung Quốc tại các căn cứ trên bờ biển nước này hoặc bên trong chuỗi đảo thứ nhất, chạy từ các đảo Nhật Bản, qua Đài Loan, Philippines tới đảo Borneo, bao bọc các vùng biển gần Trung Quốc.
Các tàu Trung Quốc sẽ càng dễ bị tổn thương nếu di chuyển ra khỏi chuỗi đảo này để tiến vào Tây Thái Bình Dương - nơi nằm ngoài tầm kiểm soát của các hệ thống phòng không đặt trên mặt đất và máy bay tấn công của Trung Quốc.
Ngoài phi đội máy bay ném bom, Mỹ cũng phát triển các kế hoạch khác để đối phó với mối đe dọa từ lực lượng hải quân và tên lửa Trung Quốc. Lực lượng Thủy quân Lục chiến Mỹ đang lên kế hoạch phân tán các đơn vị nhỏ hơn được trang bị các tên lửa tấn công và tên lửa chống hạm tầm xa nhằm đe dọa các mục tiêu trên đất liền và cả lực lượng hải quân Trung Quốc.
Lục quân Mỹ cũng lên kế hoạch triển khai lực lượng qua chuỗi đảo thứ nhất và các tiền đồn ở Tây Thái Bình Dương. Lực lượng này cũng lên kế hoạch tiến hành hàng loạt cuộc tập trận.
Mỹ và các đồng minh cũng có ý định kết nối toàn bộ hệ thống giám sát và vũ khí thành một mạng lưới khu vực để theo dõi mục tiêu và chia sẻ thông tin giữa các trạm radar, vệ tinh, tàu chiến, tàu ngầm, máy bay và lực lượng trên bộ.
Theo đó, một máy bay chiến đấu tàng hình cất cánh từ một tàu sân bay có thể phát hiện tàu chiến của đối phương và chuyển thông tin cho một đơn vị quân sự trên đảo. Đơn vị này có thể khai hỏa tấn công tàu đối phương bằng một tên lửa chống hạm.
Theo các sĩ quan không quân đương chức và về hưu của Mỹ, tốc độ và phạm vi hoạt động của các máy bay ném bom Mỹ cho phép chúng tiếp cận các mục tiêu của Trung Quốc từ nhiều hướng khác nhau và phóng hàng loạt tên lửa - loại vũ khí khó bị phát hiện vào nhiều tàu khác nhau. Các máy bay ném bom của Mỹ cũng có thể thả mìn được dẫn đường chính xác để chặn các tuyến đường biển đóng vai trò quan trọng chiến lược hoặc các cảng.