Việt Nam kỳ vọng sản xuất được thuốc phát minh
(Dân trí) - Hiện nay, tốc độ tiếp cận các loại thuốc phát minh ở nước ta còn chậm so với các nước khác. Nhiều người phải ra nước ngoài để tìm các phương pháp điều trị mới.
Vì thế, để trở thành trung tâm sản xuất dược, Việt Nam cần những bước đột phá trong nghiên cứu và phát triển dược phẩm.
Tỷ lệ bệnh nhân tham gia thử nghiệm lâm sàng tại Việt Nam rất thấp
Chia sẻ tại diễn đàn Đổi mới Sáng tạo trong lĩnh vực Y tế diễn ra tại Hà Nội mới đây, Tiến sĩ - Bác sĩ Đào Văn Tú, Giám đốc Trung tâm Thử nghiệm lâm sàng, Bệnh viện K Trung ương (Hà Nội), cho biết, thử nghiệm lâm sàng là bước cực kỳ quan trọng đưa nghiên cứu áp dụng cho con người, đưa hiệu quả nghiên cứu vào thực hành lâm sàng.
Việt Nam mới bắt đầu triển khai hoạt động thử nghiệm lâm sàng. Hiện nay, tại các trung tâm ung thư trên thế giới, tỷ lệ bệnh nhân tham gia thử nghiệm lâm sàng trên 10%, trong khi đó ở nước ta con số này rất thấp chỉ 1-2%.
"Hiện chúng ta mới chỉ phát triển nghiên cứu pha 2, pha 3, chúng ta cần tham gia nghiên cứu ngay từ pha 1 để tăng thêm cơ hội lựa chọn cho những bệnh nhân phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn, ít có cơ hội điều trị với các phương pháp hiện có", TS Tú nói.
Nếu không tham gia thử nghiệm lâm sàng, người bệnh có thể mất cơ hội được điều trị thậm chí là khỏi bệnh.
Theo ông, hoạt động này tại nước ta còn nhiều hạn chế, đầu tiên là yếu tố con người sau đó là cơ sở hạ tầng, vật chất, các dịch vụ hỗ trợ liên quan thử nghiệm lâm sàng, quy trình (phê duyệt hội đồng đạo đức, Bộ Y tế…), kiến thức về thử nghiệm lâm sàng của cả nhân viên y tế và bệnh nhân.
"Trước đây, nhiều bệnh nhân vẫn nghĩ tham gia thử nghiệm lâm sàng là đang xung phong làm "chuột bạch", thậm chí có người nói với bác sĩ "Bệnh tôi nặng, tôi sẵn sàng làm chuột để bác sĩ thí nghiệm". Quan điểm này là không đúng, thử nghiệm lâm sàng là khâu quan trọng, khi đó đã có đủ các dữ liệu để phát triển trên người.
Người bệnh tham gia thử nghiệm có nguy cơ nhưng không phải thử nghiệm lâm sàng rất nguy hiểm", TS Tú nhấn mạnh.
Việc đưa các nghiên cứu khoa học, thử nghiệm lâm sàng thuốc mới về Việt Nam sẽ là cơ hội tốt để người dân sớm tiếp cận với những phương pháp chữa bệnh mới và tốt trên thế giới. Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển ngành dược nước ta trong tương lai.
Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 trở thành trung tâm sản xuất dược phẩm giá trị cao trong khu vực. Trong đó, phấn đấu giá trị xuất khẩu thuốc sản xuất trong nước đạt khoảng 1 tỷ USD.
Cụ thể, phát triển công nghiệp dược, dược liệu sản xuất trong nước đạt trình độ cao hướng tới sản xuất thuốc biệt dược gốc, thuốc có dạng bào chế mới, hiện đại, thuốc sinh học, phấn đấu đạt cấp độ 4 theo phân loại đánh giá của WHO.
Việt Nam làm gì để trở thành trung tâm sản xuất thuốc giá trị cao?
Hiện nay, gần 90% nguyên liệu sản xuất thuốc trong nước là nhập khẩu. Tỷ lệ thuốc được đánh giá tương đương sinh học thấp, chỉ khoảng 10%. Các thuốc sản xuất trong nước chưa có tính cạnh tranh cao. Hơn 200 doanh nghiệp chủ yếu sản xuất thuốc generic.
Việt Nam đang được xem là điểm đến hấp dẫn để các tập đoàn dược phẩm đa quốc gia thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh dược phẩm trong đó bao gồm cả việc thành lập các cơ sở sản xuất thuốc để từ đó xuất khẩu sang các quốc gia khác.
Theo các chuyên gia, để hiện thực hóa mục tiêu phát triển ngành y - dược Việt Nam ngang tầm với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam cần tăng cường năng lực nghiên cứu, thử nghiệm lâm sàng và phát triển thuốc mới, ứng dụng công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo (AI), thu hút đầu tư bằng môi trường pháp lý…
Điều này thể hiện qua các chính sách ưu đãi đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ cao…
TS Tạ Mạnh Hùng, Phó cục trưởng Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế) cho biết, để thực hiện mục tiêu phát triển ngành dược, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện về thể chế, pháp luật về sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu, cung ứng, phân phối. Đặc biệt, ưu đãi cao nhất cho nghiên cứu chuyển giao công nghệ sản xuất thuốc phát minh, vaccine, sinh phẩm.
Bên cạnh đó, cần có quy hoạch, bố trí, dành quỹ đất cho phát triển các cơ sở nghiên cứu, sản xuất thuốc, quy hoạch phát triển vùng trồng, vùng khai thác, chế biến dược liệu của Việt Nam.
"Chúng ta cũng cần đẩy mạnh nghiên cứu, tham gia phối hợp quốc tế nhằm phát triển thuốc biệt dược gốc, thuốc chuyên khoa đặc trị. Đồng thời, tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, ứng dụng trí tuệ nhân tạo và chuyển đổi số để hiện đại hóa ngành dược…", TS Hùng nhấn mạnh.
Bác sĩ Emin Turan, Chủ tịch Tiểu ban Dược phẩm Phát minh, Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam, cho biết, hiện nay, tốc độ tiếp cận các loại thuốc phát minh ở Việt Nam còn chậm so với các nước khác. Do vậy, Việt Nam cần có chính sách hỗ trợ thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, cụ thể là dược phẩm.
Điều này giúp bệnh nhân có thể tiếp cận với các loại thuốc phát minh, thuốc tiên tiến mới nhất, tốt nhất. Người bệnh không cần tìm giải pháp điều trị ở nước ngoài mà có thể tiếp cận ngay ở trong nước.
"Chúng ta cũng nên tạo ra chính sách giúp thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thúc đẩy năng lực nghiên cứu và phát triển để từ đó nâng cao năng lực của ngành y tế nội địa, thúc đẩy nỗ lực đầu tư tại thị trường địa phương của các tập đoàn dược phẩm đa quốc gia.
Đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển sẽ mang đến nhiều giá trị cộng thêm", BS Emin Turan nói.
Theo ông, đổi mới sáng tạo sẽ trở thành lực đẩy ở Việt Nam và Việt Nam hoàn toàn có thể thúc đẩy đổi mới sáng tạo thông qua trao đổi và hợp tác.
"Tôi hy vọng Việt Nam có thể tìm ra cách để tạo sự khác biệt, để Việt Nam có thể đi trước một bước so với các quốc gia khác, những nước cũng đang cố gắng đạt được điều tương tự. Việt Nam hoàn toàn có thể hướng tới mục tiêu nâng tầm y tế và trở thành trung tâm khoa học, đổi mới trong khu vực", chuyên gia này nói.