Tỉ lệ vô sinh ở Việt Nam đang vào mức cảnh báo

Một thống kê mới nhất từ Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết Việt Nam đang là một trong những quốc gia tại khu vực Châu Á- Thái Bình Dương có tỷ lệ sinh thấp nhất nhưng tỷ lệ vô sinh thì lại cao nhất.

Hơn thế, trong những năm 2017-2020, tỷ lệ sinh của khu vực này còn giảm xuống dưới mức sinh thay thế. Nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ sinh thấp cũng có thể liên quan đến căn bệnh hiếm muộn.

Một lần nữa, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) dự báo: vô sinh và hiếm muộn là vấn đề nguy hiểm thứ 3, chỉ đứng sau ung thư và bệnh tim mạch ở thế kỷ 21 và căn bệnh này dần trở nên phổ biến ở các nước Châu Á trong đó có Việt Nam.

Hiện tại, vô sinh hiếm muộn còn đang dần trẻ hóa và diễn biến phức tạp, gây nhiều khó khăn, áp lực lên quá trình hỗ trợ và điều trị.

Vô sinh hiếm muộn – rào cản cho hạnh phúc trọn vẹn của mỗi cặp vợ chồng.
Vô sinh hiếm muộn – rào cản cho hạnh phúc trọn vẹn của mỗi cặp vợ chồng.

Tình trạng vô sinh hiếm muộn tại Việt Nam ngày càng trẻ hóa

1 triệu là con số ước tính số cặp vợ chồng vô sinh.

50% cặp vợ chồng vô sinh ở độ tuổi dưới 30.

7.7% là tỷ lệ vô sinh của các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ.

Theo số liệu từ Trung tâm Hỗ trợ Sinh sản - Bệnh viện Phụ sản Trung ương, nếu như 10 năm trước trung tâm chỉ tiếp nhận 2 - 3 cặp vợ chồng mỗi ngày có các vấn đề về vô sinh, hiếm muộn thì năm 2015 con số này đã tăng lên gấp 20 lần.

Tỉ lệ vô sinh ở Việt Nam đang vào mức cảnh báo - 2

Bệnh viện Phụ sản Trung ương và Đại học Y Hà Nội đã tiến hành một cuộc khảo sát nghiên cứu năm 2015 trên 14.300 cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ (từ 15 đến 49) ở 8 tỉnh thành đại diện cho 8 vùng sinh thái ở nước ta. Kết quả khảo sát rút ra kết luận: Đây thực sự là những con số đáng báo động về tình trạng vô sinh tại Việt Nam

Tại Việt Nam, số lượng các cặp vợ chồng phải điều trị các vấn đề vô sinh, hiếm muộn tăng một cách báo động.
Tại Việt Nam, số lượng các cặp vợ chồng phải điều trị các vấn đề vô sinh, hiếm muộn tăng một cách báo động.

Áp lực càng đặt nặng lên vai các chuyên gia, bác sĩ, giới y học chống lại bệnh vô sinh hiếm muộn

Không chỉ là câu chuyện và khó khăn riêng của những cặp vợ chồng trẻ. Không những liên quan đến chất lượng cuộc sống, góp phần gia tăng các căn bệnh về stress, trầm cảm, thần kinh cho các cá nhân. Vô sinh hiếm muộn còn ảnh hưởng tới dân số và các chỉ số về lao động tương lai, mất cân bằng trong một số chỉ số. Chính vì thế, áp lực đặt lên vai ngành y tế khi đối phó với việc ngăn ngừa và điều trị căn bệnh này đang ngày càng tăng.

Thật vậy, vô sinh hiếm muộn là thách thức dành cho giới y học, là nỗi trăn trở, đau đáu của các bác sỹ, chuyên gia hàng ngày tiếp xúc với bệnh nhân.

Tỉ lệ vô sinh ở Việt Nam đang vào mức cảnh báo - 4

GS.TS Nguyễn Đức Vy - Nguyên Giám Đốc Bệnh Viện Phụ Sản trung Ương – Phó chủ tịch thường trực Hội Sản Phụ Khoa Việt Nam, người nổi tiếng “mát tay” trong việc hỗ trợ điều trị cho những cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn chia sẻ: “Mỗi lần nhìn ánh mắt trông ngóng, mong mỏi như đặt hết niềm tin, giao phó hết trách nhiệm và niềm hi vọng vào bác sĩ của những cặp vợ chồng bị vô sinh hiếm muộn khi tới thăm khám, tôi tự nhủ phải làm sao tốt nhất để tìm ra phương pháp hỗ trợ hiệu quả nhất giúp họ thỏa mãn khao khát tiếng cười trẻ thơ. Chưa làm được là lòng tôi còn canh cánh, là vẫn còn áp lực đè nặng lên vai”.

GS.TS Nguyễn Đức Vy luôn canh cánh trong lòng trách nhiệm phải làm sao tốt nhất để có thể tìm ra những phương pháp hiệu quả nhất giúp các cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn thỏa mãn khao khát được ôm con mình trong lòng.
GS.TS Nguyễn Đức Vy luôn canh cánh trong lòng trách nhiệm phải làm sao tốt nhất để có thể tìm ra những phương pháp hiệu quả nhất giúp các cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn thỏa mãn khao khát được ôm con mình trong lòng.

Quyết tâm không ngừng nghỉ trong cuộc cách mạng xua tan “nỗi buồn không con”

Những phương pháp điều trị vô sinh hiếm muộn hiện đại cũng chỉ đạt tỷ lệ thành công khoảng 20-25%.
Những phương pháp điều trị vô sinh hiếm muộn hiện đại cũng chỉ đạt tỷ lệ thành công khoảng 20-25%.

Tháng 5/2013, Bệnh viện Từ Dũ đã nghiệm thu ghi nhận kết quả của đề tài nghiên cứu “Đánh giá hiệu quả của TPBVSK viên nang Linh Tự Đan đối với các trường hợp thiểu nhược tinh đến khám tại Bệnh viện Từ Dũ” do ThS. BS Hoàng Thị Diễm Tuyết lúc ấy là Phó Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ làm chủ đề tài.

Tháng 11/2013, Bệnh viện Phụ sản Trung ương công bố kết quả đề tài “Nghiên cứu tác dụng của viên nang Linh Tự Đan trong hỗ trợ điều trị vô sinh nam” do TS. Đinh Bích Thủy làm chủ đề tài và GS Nguyễn Viết Tiến, GS Nguyễn Đức Vy làm cố vấn chuyên môn.

Kết quả của nghiên cứu cho thấy trong tổng số 38 cặp vợ chồng tham gia thử nghiệm, viên nang Linh Tự Đan hiệu quả với 7 trường hợp giúp có thai tự nhiên. Số lượng và chất lượng của tinh trùng được cải thiện đáng kể, tăng từ 10.83% lên 17,83% sau khi sử dụng, hiệu quả với những trường hợp có chỉ định bơm tinh trùng vào buồng tử cung.

Linh Tự Đan – Hỗ trợ và cung cấp các dưỡng chất cho sức khỏe sinh sản, hỗ trợ tăng cường đề kháng, hỗ trợ phòng viêm nhiễm phụ khoa và đường sinh dục.
Linh Tự Đan – Hỗ trợ và cung cấp các dưỡng chất cho sức khỏe sinh sản, hỗ trợ tăng cường đề kháng, hỗ trợ phòng viêm nhiễm phụ khoa và đường sinh dục.

Chia sẻ về kết quả đặc biệt từ Linh tự Đan, GS Nguyễn Đức Vy cho biết:

“Cơ thể là một mối tổng hòa và các cơ quan trong cơ thể đều có liên quan mật thiết đến nhau. Cũng như vậy việc thụ thai cũng là mối tổng hòa của hai cơ thể nam và nữ. Việc đảm bảo cả trứng và tinh trùng đều khỏe mạnh sẽ gia tăng cơ hội thụ thai thành công hơn rất nhiều.

Và điều đặc biệt và rất hay ở Linh tự đan này là đã kế thừa triết lý trên và có tác dụng với cả nam và nữ trong quá trình hỗ trợ tăng khả năng có thai tự nhiên. Trong 8 thành phần có mặt trong Linh tự đan thì có tới 4 thành phần là: L- Aginine, L- carnitine fumarate, Kẽm, Acid Folic mà cả cơ thể nam giới và nữ giới đều cần cho vấn đề phát triển noãn, miễn dịch, nội tiết ở nữ giới và đặc biệt tăng cường sức khỏe tinh trùng ở nam giới”.

Tỉ lệ vô sinh ở Việt Nam đang vào mức cảnh báo - 8