Thuốc huyết áp thông dụng có thể làm tăng nguy cơ ngừng tim

(Dân trí) - Nghiên cứu sơ bộ kết luận rằng một thuốc thường được các bác sĩ kê đơn để điều trị đau thắt ngực và huyết áp cao có thể làm tăng nguy cơ ngừng tim đột ngột.

nghien cuu.jpg

Nghiên cứu gần đây đã xem xét các yếu tố nguy cơ đứng sau ngừng tim.

Ngừng tim xảy ra khi tim ngừng bơm máu đi khắp cơ thể. Nếu không được điều trị, ngừng tim có thể gây tử vong trong vòng vài phút.

Theo Hội Tim Mỹ (AHA), tại nước này mỗi năm có khoảng 475.000 người chết do ngừng tim.

Tình trạng này cướp đi nhiều sinh mạng hơn cả ung thư đại trực tràng, ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt, viêm phổi, cúm, tai nạn giao thông, súng, HIV và cháy nhà cộng lại.

AHA mô tả ngừng tim "là một trong những vấn đề sức khỏe cộng đồng nguy hiểm nhất ở Mỹ." Vì ngừng tim vừa nghiêm trọng vừa phổ biến, nên việc tìm hiểu các yếu tố nguy cơ liên quan là hết sức cần thiết.

Để làm điều này, Hội đồng Hồi sức Châu Âu đã tiến hành một dự án thu thập dữ liệu về ngừng tim, được gọi là mạng lưới Ngừng tim đột ngột Châu Âu (ESCAPE-NET).

Một yếu tố nguy cơ mới?

Nghiên cứu gần đây sử dụng dữ liệu ESCAPE-NET đã tìm hiểu xem liệu một nhóm thuốc được sử dụng phổ biến có đóng vai trò trong ngừng tim hay không.

Các bác sĩ thường sử dụng nhóm thuốc dihydropyridine để điều trị huyết áp cao và đau thắt ngực - đau ngực do giảm lưu lượng máu đến tim. Dự án tập trung vào hai dihydropyridine là nifedipine và amlodipine.

Các nhà khoa học đã truy cập dữ liệu từ Nghiên cứu Hồi sức Amsterdam của Hà Lan và Đăng ký Ngừng tim Đan Mạch, cả hai đều là một phần của ESCAPE-NET.

Kết quả nghiên cứu được trình bày tại EHRA 2019, hội nghị thường niên của Hội Nhịp tim châu Âu, được tổ chức tại Lisbon, Bồ Đào Nha.

Tổng cộng, họ đã truy cập dữ liệu từ hơn 10.000 người đang dùng dihydropyridines và 50.000 người đối chứng.

Phân tích cho thấy những người đang dùng nifedipine liều cao dễ bị ngừng tim ngoài viện hơn đáng kể so với những người không dùng dihydropyridine hoặc đang dùng amlodipine.

Tại sao điều này xảy ra?

Các tác giả đã tìm hiểu lý do tại sao hoạt động của hai thuốc này lại khác nhau. Cả hai thuốc đều sử dụng cùng một cơ chế, vậy tại sao một thuốc làm tăng nguy cơ ngừng tim trong khi thuốc kia dường như không có sự khác biệt?

Các dihydropyridine hoạt động thông qua việc chặn các kênh canxi týp L. Khi các kênh này bị chặn, điện thế hoạt động của các tế bào tim trở nên ngắn hơn.

Cụm từ "điện thế hoạt động" mô tả sự thay đổi về điện tích của màng liên quan đến việc truyền xung điện. Hiện tượng này xảy ra ở các dây thần kinh và tế bào cơ.

Sự thay đổi này có thể gây ra loạn nhịp tim dẫn đến ngừng tim.

Đáng chú ý là những thí nghiệm in vitro này phù hợp với kết quả của nghiên cứu trên quần thể. Liều cao của nifedipine rút ngắn điện thế hoạt động nhiều hơn đáng kể so với amlodipine liều cao.

"Nifedipine và amlodipine thường được các bác sĩ tim mạch và bác sĩ khác sử dụng, và sự lựa chọn thường phụ thuộc vào sở thích và kinh nghiệm cá nhân của người kê đơn." Ts. Hanno Tan, Trưởng dự án ESCAPE-NET nói. "Cả hai thuốc đều được coi là hiệu quả và an toàn như nhau và không liên quan đến ngừng tim đột ngột.”

"Nghiên cứu cho thấy nifedipine liều cao có thể làm tăng nguy cơ ngừng tim đột ngột do rối loạn nhịp tim chết người trong khi amlodipine thì không."

Điều quan trọng cần lưu ý là vì đây là một dòng nghiên cứu mới, sẽ rất cần khẳng định những phát hiện này trên những nhóm đối tượng nghiên cứu với nhân khẩu học khác nhau”.

Như TS. Tan kết luận, "Nếu những phát hiện này được xác nhận trong các nghiên cứu khác, chúng ta có thể phải cân nhắc khi sử dụng một trong hai thuốc này."

Cẩm Tú

Theo MNT