Có những đặc điểm này chị em cần cảnh giác với ung thư tử cung

Hà An

(Dân trí) - Số chu kỳ kinh nguyệt nhiều, không mang thai, tăng sản nội mạc tử cung, hội chứng buồng trứng đa nang, béo phì… đều làm tăng nguy cơ mắc ung thư nội mạc tử cung hay ung thư tử cung.

Nguy cơ ung thư nội mạc tử cung tăng lên theo tuổi tác. Hầu hết các trường hợp ung thư nội mạc tử cung được chẩn đoán ở độ tuổi từ 45 đến 74 tuổi.

Một số yếu tố nguy cơ khác cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung, bao gồm:

- Thay đổi nồng độ hormone giới tính

- Một số bệnh

- Tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư

Có những đặc điểm này chị em cần cảnh giác với ung thư tử cung - 1

Mức độ hormone

Estrogen và progesterone là hormone sinh dục nữ ảnh hưởng đến sức khỏe của nội mạc tử cung. Nếu sự cân bằng của các hormone này thay đổi theo hướng tăng nồng độ estrogen, nó sẽ làm tăng nguy cơ phát triển ung thư nội mạc tử cung.

Một số khía cạnh trong tiền sử bệnh của bạn có thể ảnh hưởng đến nồng độ hormone sinh dục và nguy cơ ung thư nội mạc tử cung, bao gồm:

Số năm kinh nguyệt: Bạn càng có nhiều chu kỳ kinh nguyệt trong đời, cơ thể bạn càng phải tiếp xúc nhiều hơn với estrogen. Nếu bạn có kinh lần đầu tiên trước khi 12 tuổi hoặc bạn trải qua thời kỳ mãn kinh cuối đời, bạn có thể tăng nguy cơ mắc ung thư nội mạc tử cung.

Tiền sử mang thai: Trong thời kỳ mang thai, sự cân bằng của các hormone thay đổi theo hướng progesterone, nếu bạn chưa bao giờ mang thai, khả năng phát triển ung thư nội mạc tử cung của bạn sẽ tăng cao.

Hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS): Trong rối loạn nội tiết tố này, mức độ estrogen cao và mức độ progesterone thấp bất thường. Nếu bạn có tiền sử bị PCOS, khả năng bạn bị ung thư nội mạc tử cung sẽ tăng lên.

Các khối u tế bào granulosa: Các khối u tế bào granulosa là một loại khối u buồng trứng tiết ra estrogen, làm tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung.

Một số loại thuốc cũng có thể thay đổi sự cân bằng của estrogen và progesterone trong cơ thể bạn, bao gồm:

Liệu pháp thay thế estrogen (ERT): ERT đôi khi được sử dụng để điều trị các triệu chứng của thời kỳ mãn kinh. Không giống như các loại liệu pháp thay thế hormone (HRT) khác kết hợp estrogen và progesterone (progestin), ERT chỉ sử dụng estrogen và làm tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung.

Tamoxifan: Thuốc này được sử dụng để giúp ngăn ngừa và điều trị một số loại ung thư vú. Nó có thể hoạt động giống như estrogen trong tử cung của bạn và làm tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung.

Uống thuốc tránh thai (thuốc tránh thai): Uống thuốc tránh thai giúp giảm nguy cơ ung thư nội mạc tử cung. Bạn dùng chúng càng lâu, nguy cơ ung thư nội mạc tử cung càng thấp.

Thuốc làm tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung có thể làm giảm nguy cơ mắc một số bệnh khác. Ngược lại, các loại thuốc làm giảm nguy cơ ung thư nội mạc tử cung có thể làm tăng nguy cơ mắc một số bệnh.

Bác sĩ có thể giúp bạn cân nhắc giữa lợi ích và rủi ro tiềm ẩn của việc dùng các loại thuốc khác nhau, bao gồm ERT, tamoxifan hoặc thuốc tránh thai.

Tăng sản nội mạc tử cung

Tăng sản nội mạc tử cung là một tình trạng không phải ung thư, trong đó nội mạc tử cung của bạn trở nên dày bất thường. Trong một số trường hợp, nó tự biến mất. Trong các trường hợp khác, nó có thể được điều trị bằng HRT hoặc phẫu thuật.

Nếu không được điều trị, tăng sản nội mạc tử cung đôi khi phát triển thành ung thư nội mạc tử cung.

Triệu chứng phổ biến nhất của tăng sản nội mạc tử cung là chảy máu âm đạo bất thường.

Có những đặc điểm này chị em cần cảnh giác với ung thư tử cung - 2

Béo phì

Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, những phụ nữ thừa cân (BMI từ 25 đến 29,9) có nguy cơ mắc ung thư nội mạc tử cung cao gấp đôi so với những phụ nữ không thừa cân. Những người bị béo phì (BMI> 30) có nguy cơ mắc loại ung thư này cao hơn gấp ba lần.

Điều này có thể phản ánh tác động của chất béo trong cơ thể đối với mức estrogen. Mô mỡ có thể chuyển đổi một số loại nội tiết tố (androgen) khác thành estrogen. Điều này có thể làm tăng mức độ estrogen trong cơ thể, làm tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung.

Bệnh tiểu đường

Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ cảnh báo những phụ nữ mắc bệnh tiểu đường túyp 2 có nguy cơ bị ung thư nội mạc tử cung cao gấp đôi so với những người không mắc bệnh tiểu đường.

Tuy nhiên, bản chất của liên kết này là không chắc chắn. Bệnh tiểu đường túyp 2 phổ biến hơn ở những người thừa cân hoặc béo phì, đây cũng là một yếu tố nguy cơ của ung thư nội mạc tử cung. Tỷ lệ béo phì cao ở những người mắc bệnh tiểu đường túyp 2 có thể làm tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung.

Tiền sử ung thư

Bạn có nhiều khả năng bị ung thư nội mạc tử cung hơn nếu các thành viên khác trong gia đình bạn mắc bệnh này.

Bạn cũng có nhiều nguy cơ bị ung thư nội mạc tử cung nếu bạn có tiền sử gia đình mắc hội chứng Lynch. Tình trạng này là do đột biến ở một hoặc nhiều gen sửa chữa một số sai lầm trong quá trình phát triển tế bào.

Nếu bạn có đột biến gen liên quan đến hội chứng Lynch, nó sẽ làm tăng đáng kể nguy cơ mắc một số loại ung thư, bao gồm ung thư ruột kết và ung thư nội mạc tử cung. Theo một đánh giá được công bố trên tạp chí Genes, 40 đến 60% phụ nữ mắc hội chứng Lynch phát triển thành ung thư nội mạc tử cung.

Nếu bạn đã từng bị ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng, điều đó cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung. Một số yếu tố nguy cơ của những bệnh ung thư này là giống nhau. Xạ trị trên khung chậu của bạn cũng có thể làm tăng khả năng phát triển ung thư nội mạc tử cung.