1. Dòng sự kiện:
  2. Viện Y dược học dân tộc TPHCM

23 người ăn thịt trăn bị nhiễm giun móc hay giun xoắn?

(Dân trí) - Theo triệu chứng lâm sàng ghi nhận, 10 ngày sau khi ăn thịt trăn, cả 23 người đều bị sốt cao, các bắp thịt nhức mỏi... Cử nhân y khoa Đàm Hồng Hải, Phó Chi cục trưởng, Chi Cục ATVSTP Cần Thơ, đã đề cập khả năng bị nhiễm loại giun xoắn.

  

23 người ăn thịt trăn bị nhiễm giun móc hay giun xoắn? - 1

Vòng đời của giun móc nói chung

Cần xác định rõ loại giun móc

 

Khi các cơ quan thông tin báo chí đưa tin, một số người quan tâm đến lĩnh vực này đã điện thoại hỏi về tên khoa học của loại giun móc gây bệnh. Do không có cơ sở để trả lời về tên khoa học cụ thể của loại giun móc nên người viết bài này xin phép được luận bàn vấn đề để các nhà khoa học tiếp tục xem xét, nghiên cứu xác định rõ tên khoa học của loại giun móc gây bệnh.

 

Các loại giun móc thuộc họ Ancylostomidae, trong đó giun móc Ancylostoma duodenale và giun mỏ Necator americanus có sự phân bố rộng rãi khắp vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới. Đường ranh giới phân bố của hai loại giun này có khác nhau về đặc điểm hình thể, vòng đời sinh học nhưng có nhiều đặc điểm giống nhau về hình thái, bệnh học và cách phòng chống.

 

Ngoài hai loại giun đã nêu trên, còn có loại giun móc Ancylostoma ceylanicum thường gây bệnh cho chó, mèo và vòng đời sinh học gần giống với giun móc Ancylostoma duodenale.

 

Có thể còn có nhiều loại giun móc gây bệnh khác chưa được phát hiện có khả năng lây truyền ký sinh trùng từ các loại động vật, kể cả động vật hoang dã sang người tại nước ta.

 

Loại giun móc từ con trăn bị ăn thịt làm cho 23 người bị nhiễm bệnh vừa qua cần xác định thêm tên khoa học và vai trò truyền bệnh của nó.

 

Cơ chế gây bệnh của giun xoắn

 

Bệnh giun xoắn khá phổ biến nhiều nước trên thế giới và phân bố ở khắp các châu lục. Giun xoắn hình thành các ổ bệnh thiên nhiên, tiền tàng, lưu hành giữa động vật với động vật. Các nước láng giềng với nước ta như Lào, Campuchia, Trung Quốc đều có bệnh này. Ở Việt Nam cũng đã phát hiện ổ bệnh thiên nhiên của giun xoắn tại một số địa phương.

 

Bệnh giun xoắn gây nên tình trạng cấp tính, nguy hiểm, dễ dẫn đến tử vong; có thể phát triển thành dịch khi tại địa phương có sẵn động vật mắc bệnh và có tập quán ăn thịt sống. 

 

Trong vai trò y học, giun xoắn có thể gây bệnh do giun trưởng thành và bệnh do ấu trùng giun. Bệnh do giun trưởng thành tương ứng với giai đoạn khởi phát của bệnh lúc giun đực và giun cái giao phối, ký sinh ở thành ruột, có thể gây triệu chứng đau bụng, tiêu chảy, buồn nôn, nôn, sốt... giống như bị ngộ độc thức ăn. Biểu hiện lâm sàng của giai đoạn này nặng hay nhẹ tùy thuộc vào số lượng ấu trùng giun bị nhiễm nhiều hay ít.

 

Bệnh do ấu trùng giun tương ứng với giai đoạn toàn phát của bệnh lúc ấu trùng giun vào máu chu du khắp cơ thể, tới cư trú ở các cơ vân. Triệu chứng lâm sàng ở thời kỳ này khá rầm rộ, đa dạng, xuất hiện các hội chứng sau đây:

 

- Hội chứng nhiễm trùng nhiễm độc: gây sốt cao liên tục, kéo dài, trạng thái lơ mơ... dễ nhầm với bệnh thương hàn. Xét nghiệm máu, số lượng bạch cầu tăng tới 20.000/mm3 máu hoặc cao hơn.

 

- Hội chứng dị ứng quá mẫn nặng: người bệnh bị phù nề mí mắt, mặt, các chi hoặc toàn thân. Có thể phát ban, nổi mề đay. Bạch cầu ái toan tăng cao từ 40-80%, tăng kéo dài nhiều tháng.      

 

- Triệu chứng đau cơ: khi sốt giảm dần, bệnh nhân có cảm giác đau cơ, hạn chế vận động các cơ, xương, khớp; có triệu chứng khó thở, nhai khó...

 

Nếu bệnh nặng, có thể bị viêm cơ tim, viêm phổi, viêm não, viêm màng não, viêm xuất huyết võng mạc... Do ấu trùng giun từ máu xâm nhập vào các cơ quan gây nên các triệu chứng rất đa dạng. Ấu trùng giun không thể ký sinh ở các cơ quan nên sau một thời gian nó sẽ bị chết, ấu trùng giun chỉ có thể ký sinh ở các tổ chức cơ vân mà thôi.

 

Nếu thoát khỏi thời gian nguy hiểm, người bệnh có thể phục hồi dần sức khỏe sau khi nhiễm bệnh từ 1-3 tháng. Bệnh nhân có thế chết do nhiễm trùng nhiễm độc nặng, do dị ứng quá mẫn hoặc do liệt các cơ hô hấp.

 

Căn cứ vào diễn biến lâm sàng của những người đã ăn thị trăn, sau 10 ngày người bệnh có các triệu chứng như sốt cao, nhức mỏi các bắp cơ, có người lên cơn co giật... Diễn biến này phù hợp với thời gian phát triển qua từng giai đoạn phát triển của vòng đời giun xoắn như: từ khi ấu trùng giun xâm nhập vào cơ thể người để phát triển thành giun trưởng thành khoảng 2 ngày, chúng bắt đầu sinh sản vào ngày thứ 4, ấu trùng giun xâm nhập các bắp cơ vân vào ngày thứ 7. Sau đó, ấu trùng giun bắt đầu cuộn lại và có khả năng lây nhiễm vào ngày thứ 17 đến ngày thứ 30. Ấu trùng giun tạo thành nang vào ngày thứ 30 đến ngày thứ 60. Nang kết vôi ở tháng thứ 14. Hạn định đời sống của giun trưởng thành khoảng từ 6-7 tuần. Ấu trùng có thể sống và tồn tại trong các nang ở tổ chức cơ vân tới 25 năm hoặc hơn nhưng không bao giờ phát triển thành giun trưởng thành ở đó.

 

Theo y văn, nguồn bệnh là lợn, chuột, các loại thú rừng hoang dã... bị nhiễm giun xoắn. Mầm bệnh là ấu trùng giun xoắn hiện diện trong cơ vân của các loài động vật nói trên và được lây truyền theo đường tiêu hóa do ăn phải nang ấu trùng giun còn sống. Bất kỳ đối tượng nào cũng có thể bị mắc bệnh giun xoắn, không phân biệt tuổi tác, giới tính, người ở vùng có bệnh lưu hành hay khách vãng lai.

 

Theo báo Science Daily phát hành ngày 02/10/2010 với chủ đề “Nguy cơ về mặt sinh học khi ăn thịt loài bò sát” (Biological Risks of Eating Reptiles) đã liệt kê các loại động vật có khả năng nhiễm giun xoắn. Ngoài lợn, chuột, chó, mèo, loài gậm nhấm... còn có các loại cá sấu, rùa, ba ba, động vật họ thằn lằn như kỳ đà, kỳ nhông; họ rắn gồm rắn và trăn hoang dã…

 

Một nghiên cứu ở Trung Quốc tại tỉnh Quảng Châu từ tháng 7/2009 đến tháng 6/2010 về tình hình nhiễm bệnh ký sinh trùng. Loại giun xoắn được phát hiện ở các loài rắn hoang dã, kể cả loài trăn với tỷ lệ 29,8% trong số mẫu 1.160 con được khảo sát. Theo thống kê từ năm 1964 đến năm 1999, tại 12 tỉnh ở Trung Quốc đã xảy ra 548 vụ dịch giun xoắn do người ăn các loại thịt động vật, đặc biệt là động vật hoang dã đã làm cho 23.004 người mắc bệnh, trong đó có 236 trường hợp bị tử vong.

 

Việc phát hiện, chẩn đoán bệnh giun xoắn tùy thuộc vào giai đoạn phát triển của giun. Thời kỳ giun trưởng thành ký sinh ở ruột rất khó chẩn đoán, rất hiếm khi tìm thấy giun trưởng thành trong phân thải hoặc dịch tá tràng. Thời kỳ ấu trùng giun di chuyển trong máu cũng rất khó chẩn đoán, rất hiếm khi tìm thấy ấu trùng giun xoắn ở trong máu, dịch não tủy...

 

Thời kỳ ấu trùng giun hình thành nang trong tổ chức cơ vân có thể chẩn đoán quyết định dựa vào kết quả sinh thiết cơ ở cẳng chân. Cần kết hợp với chẩn đoán dịch tễ học để xác định vùng lưu hành bệnh giun xoắn, xác định bệnh có liên quan đến bữa ăn, có thể xét nghiệm các thức ăn thừa sau bữa ăn. Các phản ứng miễn dịch học cũng có thể cho kết quả chẩn đoán tương đối chính xác.  

 

Như vậy căn cứ vào dữ liệu thu thập được, 23 người bị mắc bệnh vừa qua ở xã Ia Nhin, huyện Chư Pah, tỉnh Gia Lai do ăn thịt trăn hoang dã không bảo đảm an toàn vệ sinh có khả năng bị nhiễm loại giun xoắn nhiều hơn là loại giun móc. Vấn đề này cần được các nhà khoa học xem xét, nghiên cứu thêm.

 

Nếu bị nhiễm giun xoắn, cần điều trị triệu chứng và điều trị đặc hiệu. Việc điều trị triệu chứng được ưu tiên hàng đầu vì bệnh nhân thường chết do nhiễm trùng nhiễm độc, dị ứng quá mẫn, đau nhức, liệt cơ hô hấp... Vì vậy cần điều trị chống dị ứng bằng thuốc nhóm thuốc corticoide, thuốc giảm đau, an thần. Điều trị đặc hiệu bằng cách sử dụng thuốc thiabendazole 25mg/kg trọng lượng cơ thể, dùng 2 lần trong ngày, từ 5 đến 7 ngày. Đây là loại thuốc có tác dụng tốt trên động vật thực nghiệm nhưng khi dùng cho người bệnh cần thận trọng vì thuốc có khả năng diệt ấu trùng giun mạnh sẽ gây nên tình trạng dị ứng nặng hơn. Phải dùng thuốc sớm khi ký sinh trùng giun xoắn mới xâm nhập vào cơ thể sẽ cho hiệu quả tốt hơn.

 

Vậy thủ phạm gây bệnh lạ cho 23 người ăn thịt trăn là loại giun móc hay là loại giun xoắn (Trichinella spiralis)?  Do không có cơ sở để trả lời về tên khoa học cụ thể của loại giun móc nên người viết bài này xin phép được luận bàn vấn đề để các nhà khoa học tiếp tục xem xét.

 

TTƯT.BS. Nguyễn Võ Hinh