Nông thôn mới: Khi người dân trở thành chủ thể của sự thay đổi
(Dân trí) - Sau hơn một thập kỷ triển khai, Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới (NTM) đã trở thành một trong những dấu ấn phát triển toàn diện, mang tính bền vững nhất tại Việt Nam.
Từ thay đổi diện mạo đến thay đổi tư duy phát triển
Giai đoạn 2021–2025 tiếp tục chứng kiến bước chuyển từ lượng sang chất, khi nông thôn không chỉ “đổi thay diện mạo” mà còn “chuyển mình về tư duy phát triển”.
Trong tọa đàm “Xây dựng Nông thôn mới 2021–2025: Thành tựu từ chính sách, sức mạnh từ cộng đồng”, ông Trần Xuân Hiền - Phó vụ trưởng Vụ công tác thanh niên và bình đẳng giới, Bộ Nội vụ - cho biết chương trình NTM đã khẳng định hiệu quả trong việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân.

Kết quả sơ kết 5 năm cho thấy Chương trình mục tiêu quốc gia về Nông thôn mới là một trong những chương trình hiệu quả nhất của Chính phủ (Ảnh: Tiến Tuấn).
Kết quả sơ kết 5 năm cho thấy đây là một trong những chương trình hiệu quả nhất của Chính phủ. Hạ tầng nông thôn được cải thiện rõ rệt, giao thông thuận lợi hơn, đời sống người dân được nâng lên, trong khi công tác đào tạo nghề, tạo việc làm và phát triển văn hóa – xã hội có bước tiến đồng đều. Đặc biệt, chương trình còn tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ trong xóa đói, giảm nghèo, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.
Ông Phạm Ngọc Toàn - Giám đốc Trung tâm thông tin, phân tích, dự báo chiến lược và dịch vụ công - khẳng định tác động của NTM không chỉ thể hiện ở những con đường mới hay những công trình nước sạch, mà còn ở quyền được “tham gia và quyết định” của người dân. “Người dân được trao quyền trực tiếp tham gia, cùng bàn bạc, cùng giám sát, nên mọi khoản đầu tư đều có sự giám sát cộng đồng và phục vụ cộng đồng”, ông Toàn nhận định.

Theo ông Phạm Ngọc Toàn, sự tham gia chủ động của người dân đã mang tới những thành công vượt bậc cho chương trình trong 5 năm qua (Ảnh: Tiến Tuấn).
Chính sự “trao quyền” này đã đưa chương trình từ chỗ Nhà nước chủ động làm sang người dân làm chủ. Nếu giai đoạn trước là “làm cho dân”, thì nay là “dân làm, dân quyết, Nhà nước hỗ trợ”. Tư duy đó không chỉ giúp mỗi dự án sát hơn với nhu cầu thực tế, mà còn nuôi dưỡng tinh thần tự chủ, trách nhiệm của người dân với quê hương mình.
Theo ông Toàn, quá trình đầu tư và đào tạo nghề đã tạo việc làm, tăng thu nhập, đồng thời thúc đẩy bình đẳng giới. Nhiều phụ nữ được tiếp cận vốn vay, học nghề và tự chủ kinh tế. Song song, chuyển đổi số cũng đang dần lan tỏa tới nông thôn, giúp người dân tiếp cận dịch vụ công nhanh hơn và hiệu quả hơn.
Một điểm đáng chú ý khác là sự xuất hiện của nhiều mô hình hay tại địa phương – từ phát triển nông nghiệp gắn với du lịch bền vững đến các chương trình “Mỗi xã một sản phẩm – OCOP”. Các mô hình này không chỉ nâng cao thu nhập mà còn gắn kết văn hóa, lịch sử với phát triển du lịch, giúp người dân vừa bảo tồn giá trị truyền thống, vừa phát triển kinh tế tại chỗ.
“Trước đây, Nhà nước làm, nhân dân tham gia; nhưng giờ nhân dân làm, Nhà nước hỗ trợ”, ông Hiền khẳng định. “Chính sự thay đổi vai trò này đã tạo nên sức sống mới cho Nông thôn mới”.
Cộng đồng là linh hồn, chính sách là nền tảng
Thành công của chương trình NTM không chỉ đến từ các công trình, mà còn từ hệ thống chính sách, cơ chế vận hành và cách tổ chức thực hiện. Theo ông Trần Xuân Hiền, đòn bẩy lớn nhất của giai đoạn này đến từ việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng – đặc biệt là Nghị quyết 19 của Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn 2045, cùng Nghị quyết 26/2023 của Chính phủ. Hệ thống văn bản như Quyết định 263, 318, 319, 320 và 321 của Thủ tướng đã cụ thể hóa tiêu chí Nông thôn mới, Nông thôn mới kiểu mẫu, và cả chỉ số hài lòng của người dân.
Tuy nhiên, như ông Toàn chỉ ra, thách thức vẫn còn: chậm giải ngân vốn, chênh lệch năng lực địa phương, và sự chồng chéo giữa các chương trình mục tiêu như NTM và giảm nghèo.
Chính vì vậy, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu tích hợp ba chương trình mục tiêu quốc gia – xây dựng Nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số – nhằm tránh trùng lặp và đưa chính sách đến đúng người thụ hưởng. Theo ông Hiền, việc này không chỉ giúp tinh gọn bộ máy mà còn trao nhiều quyền tự chủ hơn cho cấp cơ sở – nơi chính sách được thực thi trực tiếp và sát dân nhất.

Việc tích hợp ba chương trình mục tiêu quốc gia – xây dựng Nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số - vừa giúp tinh gọn bộ máy, vừa trao nhiều quyền tự chủ hơn cho cấp cơ sở (Ảnh: Tiến Tuấn).
Ở góc độ tổ chức, ông Toàn nhấn mạnh yếu tố “linh hoạt theo vùng miền” bởi mỗi địa phương có điều kiện kinh tế, phong tục, tập quán riêng, vì vậy nếu áp một “chuẩn chung” cho mọi nơi, có thể không phù hợp. Việc thiết kế chính sách cần đi từ thực tiễn – “đúng người, đúng việc, đúng trách nhiệm”. Ông cũng cho rằng hợp tác công – tư là hướng đi tất yếu để giảm gánh nặng cho Nhà nước trong đầu tư hạ tầng và dịch vụ xã hội.
Không chỉ có chính sách, vai trò của chính quyền cơ sở được ví như “người nhạc trưởng” trong bản giao hưởng xây dựng NTM. Cấp xã là nơi kết nối giữa chủ trương và hành động, giữa người dân và doanh nghiệp. “Đừng nói những điều ‘đao to búa lớn’, hãy nói những gì gần dân, sát dân”, ông Toàn chia sẻ. Khi người dân nhìn thấy rõ lợi ích – một con đường mới, một trường học tốt hơn, nguồn nước sạch hơn – họ sẽ tự nguyện tham gia, đóng góp sức người, sức của để hoàn thiện chương trình.
Để củng cố tinh thần “người dân là chủ thể”, ông Hiền cho rằng chính sách cần “minh bạch, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện”. Mỗi vùng cần có cơ chế riêng, phù hợp đặc thù địa bàn, đặc biệt là vùng sâu, vùng biên giới như Lai Châu, nơi cần những chính sách đặc thù để người dân ổn định sinh kế và phát triển bền vững.
Từ thực tế triển khai, nhiều mô hình cộng đồng tự nguyện đã chứng minh hiệu quả. Ông Toàn dẫn chứng phương châm “6 Dân”: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng – nguyên tắc then chốt tạo niềm tin và trách nhiệm chung. Những mô hình kinh tế nông nghiệp gắn với du lịch cộng đồng ở Tây Nguyên hay du lịch văn hóa Khmer tại Tây Nam Bộ là ví dụ tiêu biểu. Khi người dân nhận thấy lợi ích trực tiếp, họ sẽ tham gia tự giác và chủ động hơn.

"Khi người dân nhận thấy lợi ích trực tiếp, họ sẽ tham gia tự giác và chủ động hơn" - ông Phạm Ngọc Toàn cho hay (Ảnh: Tiến Tuấn).
Về truyền thông, ông Hiền nhấn mạnh vai trò của hệ thống thông tin cơ sở, phương tiện đại chúng và công nghệ số trong việc phổ biến chính sách. “Hiện chúng ta có cả một luật về tiếp cận thông tin, cho phép người dân được biết mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước”, ông nói. Bên cạnh đó, Bộ Nội vụ phối hợp với Báo Dân trí đã đăng tải hơn 1.000 bài viết, video, hình ảnh về các mô hình NTM tiêu biểu, đồng thời phát động phong trào “Cả nước chung sức xây dựng Nông thôn mới” để nhân rộng điển hình.
Với các vùng còn khó khăn, ông Toàn đề xuất áp dụng mô hình “liên vùng”, trong đó các xã đạt chuẩn hỗ trợ xã chưa đạt chuẩn bằng cách chia sẻ kinh nghiệm, “cầm tay chỉ việc”, đồng thời, cần linh hoạt tiêu chí NTM phù hợp với từng vùng dân tộc, từng đặc trưng văn hóa – vì sự bền vững phải bắt đầu từ tính phù hợp.
Cuối cùng, để tránh bệnh thành tích, ông Hiền cho rằng cần coi “sự hài lòng của người dân” là thước đo hiệu quả. Mọi tiêu chí, dù là hạ tầng hay đời sống văn hóa, đều phải được lượng hóa bằng đánh giá thực chất của người dân – những người thụ hưởng chính của chương trình.

Ông Trần Xuân Hiền cho rằng cần coi “sự hài lòng của người dân” là thước đo hiệu quả của các chương trình mục tiêu quốc gia (Ảnh: Tiến Tuấn).
Còn theo ông Toàn, muốn huy động được doanh nghiệp và xã hội cùng tham gia, phải có cơ chế ưu đãi cụ thể. “Nông thôn không phải nơi hấp dẫn để doanh nghiệp đầu tư, nên nếu muốn họ vào cuộc, cần ưu đãi tín dụng, thuê đất, thuế và gắn lợi ích kinh tế với trách nhiệm xã hội”. Khi đó, hợp tác công – tư không chỉ tạo thêm nguồn lực mà còn giúp NTM mới trở thành chương trình của toàn dân, toàn xã hội – nơi mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp đều là một phần của hành trình kiến tạo tương lai xanh, bền vững cho đất nước.











