Doanh nghiệp là cầu nối quan trọng để người lao động tiếp cận bảo hiểm thất nghiệp
(Dân trí) - Tọa đàm “Bảo hiểm thất nghiệp - Điểm tựa an sinh giúp người lao động quay lại thị trường” thảo luận giải pháp nhằm phát huy hiệu quả chính sách bảo hiểm thất nghiệp trong bối cảnh thị trường lao động biến động.
Tọa đàm “Bảo hiểm thất nghiệp - Điểm tựa an sinh hỗ trợ người lao động quay lại thị trường việc làm” do báo Dân trí phối hợp cùng Cục Việc làm (Bộ Nội vụ) tổ chức ngày 25/7 đã tập trung thảo luận câu chuyện làm thế nào phát huy tốt hơn vai trò an sinh của bảo hiểm xã hội, nhất là trong giai đoạn thị trường lao động nhiều biến động.
Theo thống kê của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, bình quân mỗi năm có hơn 820.000 người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp. Riêng năm 2020, con số này vượt 1 triệu người do tác động của Covid-19. Những số liệu này cho thấy bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) thực sự là “phao cứu sinh” với người lao động, nhưng để chính sách đi vào thực chất, sự đồng hành của doanh nghiệp đóng vai trò không thể thiếu.

Tọa đàm “Bảo hiểm thất nghiệp - Điểm tựa an sinh hỗ trợ người lao động quay lại thị trường việc làm” do báo Dân trí phối hợp cùng Cục Việc làm (Bộ Nội vụ) tổ chức (Ảnh: Hải Long).
Doanh nghiệp phải chủ động hơn
Bà Vũ Thị Thanh Liễu, Phó giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội, cho rằng để hỗ trợ người lao động sớm quay lại làm việc, doanh nghiệp nên phối hợp với các cơ quan BHTN như Trung tâm Dịch vụ việc làm. Trước hết, doanh nghiệp cần chốt sổ BHXH, xác nhận thời gian tham gia BHTN để người lao động khi nghỉ việc có thể ngay lập tức làm thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Bà Vũ Thị Thanh Liễu, Phó giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội (Ảnh: Hải Long).
Đại diện Cục Việc làm thông tin, một số doanh nghiệp vẫn chưa thật sự chú trọng đến vai trò của mình trong việc triển khai BHTN. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động mà còn làm giảm hiệu quả của chính sách.
Bà Liễu dẫn chứng, sau 15 năm triển khai, vẫn còn nhiều trường hợp người lao động không thể nộp hồ sơ đúng hạn do doanh nghiệp chưa hoàn tất nghĩa vụ đóng BHXH. Đây là nguyên nhân khiến người lao động bị chậm hoặc mất quyền hưởng trợ cấp, gây khó khăn trong việc duy trì cuộc sống, bởi luật quy định hồ sơ phải nộp trong vòng 3 tháng kể từ khi mất việc.

Tư vấn, giải đáp chính sách BHTN cho người lao động (Ảnh: Châu Giang).
Theo bà Liễu, doanh nghiệp nên thông tin với người lao động về vị trí tuyển dụng nếu doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lại, để ưu tiên cho những người đã từng làm việc tại doanh nghiệp trước đó, khi họ đã hưởng xong BHTN theo quy định.
Bên cạnh đó, nên phối hợp cung cấp thông tin cho các trung tâm dịch vụ việc làm để trung tâm có thể giới thiệu người lao động phù hợp cho doanh nghiệp. Đây cũng là cầu nối giúp người lao động sớm quay trở lại với thị trường nhanh nhất.
“Doanh nghiệp cũng nên hỗ trợ người lao động về đào tạo nghề (nâng cao, đào tạo lại) để họ duy trì được việc làm bền vững”, Phó giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội nói thêm.
Tránh lãng phí nguồn lực
Đề cập đến thực trạng doanh nghiệp sử dụng lao động hưởng BHTN, nhưng người lao động bỏ việc sớm gây lãng phí nguồn lực, bà Liễu cho rằng doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ hơn với các trung tâm dịch vụ việc làm để xác định rõ yêu cầu tuyển dụng, từ đó sàng lọc ứng viên phù hợp.
“Doanh nghiệp nên thỏa thuận với người lao động bằng cam kết ràng buộc trên hợp đồng lao động. Doanh nghiệp cũng nên có những hỗ trợ ban đầu cho người lao động, bởi khi người lao động mới đến có thể bỡ ngỡ với công việc mới, để người lao động gắn bó với công ty lâu dài hơn. Doanh nghiệp nên đưa ra những chế độ thưởng để níu chân người lao động”, bà Liễu nhấn mạnh.

Doanh nghiệp là đầu mối đóng BHTN, bảo đảm quyền lợi cho người lao động (Ảnh: Châu Giang).
Theo các chuyên gia, khi doanh nghiệp phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý và trung tâm dịch vụ việc làm, chính sách BHTN sẽ không chỉ dừng ở việc chi trả trợ cấp mà còn trở thành công cụ chủ động phòng ngừa thất nghiệp, nâng cao kỹ năng và kết nối việc làm bền vững cho người lao động. Qua đó, chính sách BHTN có thể tiến gần hơn tới mục tiêu an sinh toàn diện, phù hợp với đặc thù thị trường lao động linh hoạt và bối cảnh kinh tế số.










