2 tháng thử việc vẫn được tính để xét hưởng trợ cấp thôi việc

Nguyễn Vy

(Dân trí) - Bộ Nội vụ cho hay, thời gian người lao động thử việc không tham gia bảo hiểm và không được doanh nghiệp chi trả tiền bảo hiểm vào lương vẫn được tính là thời gian đã làm việc thực tế.

Bà Vũ Thị Hồng Hải (ngụ tại TP Hà Nội) ký hợp đồng thử việc với một công ty vào tháng 10/2018. Trong thời gian thử việc 2 tháng, bà không tham gia bảo hiểm và không được công ty chi trả tiền bảo hiểm vào lương.

Tháng 1/2019, bà ký hợp đồng chính thức và được công ty đóng bảo hiểm, đến tháng 7/2025 thì bà Hải nghỉ việc.

Bà Hải thắc mắc: “Liệu có được hưởng trợ cấp thôi việc cho thời gian 2 tháng thử việc không tham gia bảo hiểm thất nghiệp hay không? Trợ cấp thôi việc sẽ được tham chiếu theo Bộ luật Lao động tại thời điểm nghỉ việc vào năm 2025 hay là tại thời điểm ký hợp đồng thử việc vào năm 2018?”.

Về vấn đề này, Bộ Nội vụ cho hay theo quy định tại khoản 2, Điều 58 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025, văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi, sự kiện xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực.

Bộ luật Lao động năm 2019 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2019. Theo đó, trường hợp hợp đồng lao động của bà Vũ Thị Hồng Hải chấm dứt vào tháng 7/2025, thì trợ cấp thôi việc của bà được thực hiện theo quy định tại Bộ luật Lao động năm 2019 và các văn bản hướng dẫn.

Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 8 Nghị định số 145 của Chính phủ, thời gian thử việc của bà dù không tham gia bảo hiểm và không được công ty chi trả tiền bảo hiểm vào tiền lương, vẫn được tính vào thời gian đã làm việc thực tế để người sử dụng lao động làm căn cứ xác định trợ cấp thôi việc.

Theo đó, thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm.

Tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động bao gồm thời gian người lao động đã trực tiếp làm việc; thời gian thử việc; thời gian được người sử dụng lao động cử đi học; thời gian nghỉ hưởng chế độ ốm đau, thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội; thời gian nghỉ việc để điều trị, phục hồi chức năng lao động khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà được người sử dụng lao động trả lương theo quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động…

Thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp bao gồm thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp và thời gian người lao động thuộc diện không phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định, nhưng được người sử dụng lao động chi trả cùng với tiền lương của người lao động một khoản tiền, tương đương với mức người sử dụng lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động.

Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm của người lao động được tính theo năm (đủ 12 tháng). Trường hợp có tháng lẻ ít hơn hoặc bằng 6 tháng được tính bằng 1/2 năm; trên 6 tháng được tính bằng 1 năm làm việc.